Hợp đồng là một thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều bên, thường được thể hiện bằng văn bản, quy định các điều khoản và điều kiện của một thỏa thuận. Tầm quan trọng của hợp đồng bằng văn bản là không thể phủ nhận, đặc biệt đối với các giao dịch có giá trị cao, bởi vì nó được xem là cơ sở để các bên có tên trong hợp đồng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách công bằng và cụ thể. Theo đó, một hợp đồng luôn được soạn thảo theo hướng chi phối hành vi của các bên trong càng nhiều sự kiện có thể xảy ra càng tốt và từ ngữ hợp đồng cũng cần phải chính xác và có ý nghĩa. Điều này giải thích tại sao một số công ty sẵn sàng trả một số tiền đáng kể cho luật sư để soạn thảo hợp đồng.
Tuy nhiên trên thực tế, việc thực hiện một thỏa thuận đôi khi sẽ không giống với kỳ vọng của các bên tại thời điểm họ ký. Điều này là do các bên không thể dự đoán trước một cách chắc chắn và toàn bộ sự xuất hiện của các sự kiện khách quan, cũng như thay đổi năng lực của các bên trong thời gian thực hiện hợp đồng. Có những nghĩa vụ có thể định lượng được hoặc trong đó các kết quả có thể được xác định rõ ràng để các bên có thể dễ dàng đặt ra yêu cầu chính xác cho việc thực hiện. Trong khi đó, có một số nghĩa vụ, đặc biệt là trong các sự kiện bất khả kháng, hậu quả hầu như không thể đo lường được. Do đó, yêu cầu một kết quả cố định cho các nghĩa vụ đó tại thời điểm ký kết hợp đồng được xem là không hợp lý. Trong những trường hợp như vậy, một bên chỉ có thể yêu cầu các bên có nghĩa vụ, bằng những nỗ lực tốt nhất, tìm kiếm giải pháp cho trách nhiệm của họ.
Thực tế, không khó để gặp một hợp đồng với các điều khoản mà trong đó, các bên đưa ra lời hứa thực hiện nghĩa vụ của mình với những nỗ lực tốt nhất. Đối với đa số mọi người, những điều khoản như vậy không có gì để xem xét và đàm phán. Có lẽ, họ cảm thấy không cần phải quan tâm, hoặc chỉ đơn giản là niềm tin vào đối tác của họ đủ mạnh để bỏ qua tiêu chí đánh giá những nỗ lực tốt nhất. Ngược lại, một số người lại xem xét tiêu chuẩn cho “nỗ lực tốt nhất” một cách cẩn thận, đặc biệt là với các giao dịch có giá trị và rủi ro cao. Ngay cả khi nhận thức được những từ này chỉ là định tính, họ vẫn muốn làm rõ các tiêu chí hoặc phạm vi để xem xét việc thực hiện của các bên khác theo hợp đồng thực sự là những nỗ lực tốt nhất trên thực tế hay không.
Từ góc độ ngôn ngữ, nỗ lực tốt nhất có thể được hiểu là “việc đòi hỏi người có nghĩa vụ phải làm mọi thứ trong khả năng của mình để thực hiện nghĩa vụ, bao gồm chi tiêu và thực hiện không giới hạn số tiền, thời gian và công sức, đến mức có thể gây bất kỳ thiệt hại cho bên có nghĩa vụ” [1]. Tuy nhiên, áp dụng cách hiểu này vào thực tiễn pháp lý là làm khó cho người thực hiện nghĩa vụ. Về mặt thuật ngữ pháp lý, không có định nghĩa cụ thể hoặc cách giải thích chính xác nhất cho từ “nỗ lực tốt nhất”. Thực tế, đưa ra một chuẩn mực xác định để đánh giá nỗ lực tốt nhất về hiệu suất hợp đồng của các bên là không khả quan, nếu không muốn nói là bất khả thi.
Có thể đồng ý rằng việc đo lường những nỗ lực tốt nhất trong hoạt động hợp đồng nên được tiến hành trên cơ sở thực tế khách quan, ví dụ như của một công ty, tại thời điểm nghĩa vụ của nó đòi hỏi những nỗ lực tốt nhất xảy ra. Cụ thể, để đo lường chính xác mức độ thực hiện nghĩa vụ, các yếu tố như tài chính, nguồn nhân lực, kinh nghiệm và nghĩa vụ còn tồn đọng đối với các đối tượng khác rất cần được tính đến. Cần lưu ý, một công ty thường bị trói buộc bởi nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm đối với nhiều bên như cơ quan quản lý Nhà nước (chủ yếu là cơ quan thuế), nhân viên, khách hàng và đối tác thương mại. Hơn nữa, trong một số trường hợp, một công ty phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo sự sắp xếp ưu tiên theo quy định của pháp luật hoặc tập quán được công nhận và thực hiện rộng rãi.
“Nỗ lực hợp lý” hay “nỗ lực tốt nhất”?
Ngoài cụm từ “nỗ lực tốt nhất”, cụm từ “nỗ lực hợp lý” cũng thường có thể được tìm thấy trong các hợp đồng. Nói theo ngôn ngữ học, từ “tốt nhất” và “hợp lý” rõ ràng là khác nhau về nghĩa. Như đã trích dẫn ở trên, tiêu chuẩn nỗ lực tốt nhất có thể mang ý nghĩa “làm mọi thứ trong khả năng của mình”, và “đến mức có thể gây bất kỳ thiệt hại cho bên có nghĩa vụ”. Trong khi đó, “nỗ lực hợp lý” có thể được hiểu là làm mọi việc với sự cân nhắc hợp lý về những thiệt hại có thể chấp nhận được. Vì vậy, về cơ bản, những từ đó không thể thay thế cho nhau trong giao tiếp hàng ngày.
Tuy nhiên, về mặt hợp đồng, việc thực hiện “nỗ lực tốt nhất” và “nỗ lực hợp lý” vẫn còn gây tranh cãi ở một số khu vực tài phán khác nhau. “Trong nhiều năm, các tòa án Hoa Kỳ đã sử dụng các cụm từ “nỗ lực hợp lý” và “nỗ lực tốt nhất” theo hướng có thể thay thế cho nhau trong và giữa các ý kiến. Khi chỉ sử dụng một trong các thuật ngữ, nghĩa vụ nỗ lực cao nhất thường không có sự phân biệt với nghĩa vụ nỗ lực hợp lý.”[2] . Ở Vương quốc Anh, cách tiếp cận trong việc diễn giải những nỗ lực tốt nhất của “nỗ lực tốt nhất” và “nỗ lực hợp lý” đã được điều chỉnh đáng kể sau nhiều năm tranh luận. Các tiêu chuẩn của “nỗ lực tốt nhất” thường được coi là nghĩa vụ nghiêm ngặt hơn nhiều so với các “nỗ lực hợp lý”, vì nỗ lực hợp lý được xem là cho phép các bên trong hợp đồng thực hiện nghĩa vụ của mình trên cơ sở đánh giá các yếu tố thương mại. Mặc dù vậy, hiện tại người ta chấp nhận rằng dường như “có rất ít yếu tố để phân biệt giữa các tiêu chuẩn nỗ lực tốt nhất và hợp lý tại Vương quốc Anh.”[3] . Ngược lại, tại Canada, có một sự khác biệt đáng kể giữa những nỗ lực tốt nhất và những nỗ lực hợp lý trong suy nghĩ của người hành nghề luật nói chung. “Justice Dorgan xác định rằng tiêu chuẩn của “những nỗ lực tốt nhất” là một tiêu chuẩn khắt khe được minh họa bằng cụm từ “không có chướng ngại nào bị che giấu”, mặc dù trong bối cảnh và mục đích chung của chính hợp đồng, và còn khắt khe hơn cả “những nỗ lực hợp lý””[4]. Trong khi đó, tiêu chuẩn của “nỗ lực hợp lý” thường được xem là bắt buộc một bên phải thực hiện nhiệm vụ của mình theo cách ít gây tổn thất nhất. Chẳng hạn, trong vụ việc của Armstrong v. Langley (thị trấn), tòa án cho rằng “Nỗ lực hợp lý ‘không yêu cầu tất cả các bước có thể có được [nhưng thay vào đó] là các bước hợp lý. Những nỗ lực hợp lý không có nghĩa là những nỗ lực tốt nhất có yêu cầu nghĩa vụ cao hơn đối với người có nghĩa vụ để hoàn thành nhiệm vụ được yêu cầu.”[5]
Kết luận: Xem xét vấn đề từ góc độ thực hành pháp luật tại Việt Nam
Nói chung, tại Việt Nam, các điều khoản đưa ra lời hứa sẽ thực hiện bằng nỗ lực tốt nhất thường không thu hút sự chú ý của các bên liên quan trong hợp đồng. Trên thực tế, các bên thường không đàm phán về cách các nỗ lực của một bên được đánh giá là tốt nhất và theo đó, các nghĩa vụ cần phải được thực hiện trong nỗ lực tốt nhất được đo lường bằng sự tin tưởng.
Ở Việt Nam chưa có tiền lệ nào được tạo ra để dẫn chiếu đến trong trường hợp có tranh chấp hợp đồng liên quan đến việc thực hiện “những nỗ lực tốt nhất”. Tuy nhiên, các bên có thể hạn chế khả năng tranh chấp có thể xảy ra liên quan đến vấn đề này bằng cách thảo luận về các tiêu chuẩn cụ thể về nỗ lực tốt nhất hoặc về các hành động dự kiến sẽ được thực hiện. Mặt khác, nếu không có tiêu chuẩn nào được các bên đồng ý trước khi thực hiện hợp đồng, các tiêu chuẩn nỗ lực tốt nhất hoặc hợp lý nên được xem xét trên cơ sở các sự kiện khách quan thực tế để cho hợp lý và công bằng.
[1] https://www.jonesday.com/en/insights/2007/07/best-efforts-and-endeavourscase-analysis-and-practical-guidance-under-us-and-uk-law
[2] Tham khảo footnote 1.
[3] Tham khảo footnote 2
[4] https://www.lexology.com/library/detail.aspx?g=6a4c20dc-594d-4756-b710-7a2dc213e8c0
[5] Xem footnote 4