Trong tố tụng Tòa án, việc xác định đúng tư cách tố tụng của đương sự có ý nghĩa quan trọng bởi mỗi đương sự có quyền và nghĩa vụ khác nhau trong một vụ án. Do đó, việc sai định sai tư cách tố tụng của đương sự có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, dẫn đến sự vi phạm về thủ tục tố tụng làm căn cứ để bản án, quyết định của Tòa án bị hủy. Bài viết sau đây trình bày việc xác định tư cách tố tụng của chủ doanh nghiệp tư nhân – một loại hình doanh nghiệp đặc biệt cần phải lưu ý.
1. Tư cách tham gia tố tụng của chủ doanh nghiệp tư nhân
Tại Việt Nam, khái niệm về doanh nghiệp tư nhân lần đầu tiên được quy định tại Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 và tiếp tục được Luật Doanh nghiệp năm 2005, 2014 và 2020 kế thừa. Theo đó, doanh nghiệp tư nhân được quy định là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.1 Căn cứ khái niệm này, doanh nghiệp tư nhân được xác định không phải là một thực thể độc lập.2 Đồng thời, căn cứ quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015 về các điều kiện để một tổ chức được công nhận là pháp nhân, có thể nhận biết được doanh nghiệp tư nhân là tổ chức không có tư cách pháp nhân.3
Do doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân, Luật Doanh nghiệp năm 2014 trước đây quy định rõ: “Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp.” Có thể thấy rằng, pháp luật nước ta đã quy định một cách rõ ràng doanh nghiệp tư nhân không được xác định là đương sự trong vụ án mà chính chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ được xác định là đương sự. Việc xác định chủ doanh nghiệp tư nhân là đương sự tham gia tố tụng trong vụ án là phù hợp với quy định doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp nêu trên. Đồng thời, theo Hướng dẫn số 29/HD-VKSTC ngày 25/9/2020 của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao về một số nội dung trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã hướng dẫn: “Đối với tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp tư nhân, khi tham gia tố tụng phải xác định ông/ bà… chủ doanh nghiệp tư nhân … tham gia tố tụng theo quy định tại Khoản 1 Điều 183 Luật Doanh nghiệp năm 2014: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm””.
Đến khi Luật Doanh nghiệp năm 2020 ra đời, quy định về việc tham gia tố tụng của doanh nghiệp tư nhân được sửa đổi theo hướng: “Chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật, đại diện cho doanh nghiệp tư nhân với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án, đại diện cho doanh nghiệp tư nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.” Mặc dù vậy, việc xác định chủ doanh nghiệp tư nhân là đương sự trong vụ án thay vì doanh nghiệp tư nhân vẫn đang được Tòa án áp dụng trên thực tế.
2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan việc xác định tư cách tham gia tố tụng của chủ doanh nghiệp tư nhân
Theo thực tiễn xét xử hiện nay, đa phần các Tòa án hiện căn cứ các quy định tại Điều 188 và Điều 190 Luật Doanh nghiệp năm 2020 để xác định chủ doanh nghiệp tư nhân là đương sự trong vụ án. Tuy nhiên, vẫn có các Tòa án, đặc biệt là Tòa án cấp sơ thẩm, đã có thiếu sót trong việc vận dụng các quy định của pháp luật doanh nghiệp dẫn đến việc xác định doanh nghiệp tư nhân là đương sự, thay vì chủ doanh nghiệp tư nhân. Vậy trong trường hợp Tòa án có sai sót trong việc xác định tư cách tham gia tố tụng của chủ doanh nghiệp tư nhân thì có được xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hay không?
Theo các quy định tại Khoản 2, Điều 310; Khoản 3, Điều 345; điểm b, Khoản 5, Điều 462 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những căn cứ để hủy bản án, quyết định của Tòa án. Do hiện chưa có hướng dẫn chính thức về các trường hợp được xem là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng có thể được hiểu là việc Tòa án đã không tuân thủ các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự dẫn đến việc đương sự không thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ của họ trong vụ án đó. Vi phạm có nhiều loại với mức độ nghiêm trọng khác nhau như vi phạm trong việc tống đạt văn bản tố tụng hay bỏ lọt tư cách đương sự, giải quyết không đầy đủ yêu cầu của đương sự… Tùy từng loại vi phạm và trong từng vụ việc cụ thể mà mức độ ảnh hưởng của vi phạm đó đối với các đương sự trong vụ án khác nhau.4 Do đó, việc xác định sai tư cách tham gia tố tụng của chủ doanh nghiệp tư nhân có được xem là “có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” hay không còn tùy vào từng trường hợp cụ thể.
Theo Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2022/KDTM-ST ngày 30/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp liên quan tranh chấp hợp đồng dịch vụ cung ứng vật tư cát nền, sang lấp mặt bằng, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định Doanh Nghiệp Tư Nhân T là nguyên đơn trong vụ án. Theo đó, tại quyết định của bản án sơ thẩm, Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp đã tuyên xử buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả tiền nợ của nguyên đơn là Doanh Nghiệp Tư Nhân T. Khi thực hiện việc kháng cáo, bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng Doanh Nghiệp Tư Nhân T khởi kiện với tư cách nguyên đơn trong vụ án là không đúng với quy định tại Khoản 3, Điều 185 Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Khoản 3, Điều 190 Luật Doanh nghiệp năm 2020 mà phải là bà Lê Thị P – chủ Doanh Nghiệp Tư Nhân T. Dẫn đến việc ủy quyền tham gia tố tụng của Doanh Nghiệp Tư Nhân T cho ông Nguyễn Hồng T là vi phạm tố tụng. Quan điểm về việc bản án sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng về tố tụng được Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp đồng tình và là một trong hai căn cứ để đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm bên cạnh vi phạm về nội dung.
Khi giải quyết phúc thẩm vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm xác định Tòa án cấp sơ thẩm đã có sai sót trong việc xác định Doanh Nghiệp Tư Nhân T là nguyên đơn trong vụ án thay vì bà Lê Thị P – chủ Doanh Nghiệp Tư Nhân T, dẫn đến việc ủy quyền của Doanh Nghiệp Tư Nhân T cho ông Nguyễn Hồng T cũng không chính xác. Mặc dù vậy, việc thiếu sót này không làm thay đổi bản chất của nội dung vụ án nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thực hiện việc điều chỉnh lại cho phù hợp pháp luật từ cụm từ “Doanh Nghiệp Tư Nhân T” thành cụm từ “bà Lê Thị P” là chủ Doanh Nghiệp Tư Nhân T. Từ đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy không cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm nên đã quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm và đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm cần nghiêm khắc rút kinh nghiệm.
Có thể thấy rằng, việc Tòa án cấp phúc thẩm xác định xác định tư cách tham gia tố tụng của chủ doanh nghiệp tư nhân nêu trên là phù hợp với quy định của pháp luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm đã có sự đánh giá mức độ sai sót và quyết định không hủy bản án sơ thẩm do sai sót không làm thay đổi bản chất của nội dung vụ án. Trên thực tế, việc xem xét sự sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm về việc xác định tư cách tham gia tố tụng của chủ doanh nghiệp tư nhân không phải là sự vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng làm căn cứ hủy án thường được các Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng.5
Tóm lại, căn cứ các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 và các quy định có liên quan, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của chủ doanh nghiệp tư nhân đã được quy định rõ ràng và áp dụng phổ biến trên thực tế. Do đó, khi tham gia giải quyết tranh chấp, các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp cần lưu ý để nhận biết và áp dụng một cách phù hợp các quy định của pháp luật.
(1) Khoản 1, Điều 188 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
(2) Ngô Huy Cương (2010), Vài bình luận về pháp luật doanh nghiệp tư nhân, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 26 (2010) 24-33.
(3) Bùi Ngọc Tuyền (2022), Xác lập điều kiện pháp lý để doanh nghiệp tư nhân bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp kháctrong hoạt động kinh doanh, Tạp chí Công Thương, Số 9, tháng 5 năm 2022, https://tapchicongthuong.vn/xac-lap-dieu-kien-phap-ly-de-doanh-nghiep-tu-nhan-binh-dang-voi-cac-loai-hinh-doanh-nghiep-khactrong-hoat-dong-kinh-doanh-99337.htm.
(4) Nguyễn Quang Trí (2023), Về phạm vi xét xử theo thủ tục phúc thẩm và quyền kháng nghị của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, Tạp chí Kiểm sát số 12/2023.
(5) Xem các Bản án số 02/2023/KDTM-PT ngày 30/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, Bản án số 143/2022/DS-PT ngày 08/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Bản án số 50/2024/DS-PT ngày 15/5/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, Bản án số 206/2023/DS-PT ngày 10/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.
Khuyến cáo:
Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý cho bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Các quy định pháp luật được dẫn chiếu trong nội dung bài viết có hiệu lực vào thời điểm đăng tải bài viết nhưng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đọc. Do đó, chúng tôi khuyến nghị bạn luôn tham khảo ý kiến của chuyên gia trước khi áp dụng.
Các vấn đề liên quan đến nội dung hoặc quyền sở hữu trí tuệ liên của bài viết, vui lòng gửi email đến cs@apolatlegal.vn.
Apolat Legal là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Giải quyết tranh chấp. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi Giải quyết tranh chấp và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@apolatlegal.com.