Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sự cạnh tranh giữa các quốc gia ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ, khoa học công nghệ,… Các quốc gia dần có xu hướng tìm đến sự phát triển bền vững. Các hiệp định thương mại tự do đã ký kết trước đây hiện đã không còn phù hợp, vì thế nhu cầu tham gia vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với những thay đổi cả về lượng và chất đang dần được các quốc gia lựa chọn và trở thành một xu thế mới trong mối quan hệ giao thương giữa các quốc gia trên toàn thế giới.
Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement; viết tắt là FTA) là sự thỏa thuận giữa hai hai hay nhiều quốc gia quốc gia với nhau nhằm mục đích chung nhất là sẽ thực hiện theo lộ trình đã cam kết để cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan cũng như phi thuế quan giữa các thành viên với nhau. Xuất phát từ bối cảnh sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế các quốc gia phải chịu thiệt hại nặng nề cả các nước thắng trận lẫn bại trận, do đó việc phục hồi kinh tế là hết sức cấp thiết. Từ đó, nhu cầu về giao thương hàng hóa ngày càng tăng cao trong khi giữa các quốc gia vẫn còn các hàng rào thuế quan, phi thuế quan từ đó các hiệp định thương mại tự do được ra đời. Các hiệp định thương mại tự do truyền thống chủ yếu tập trung vào mục tiêu tự do hóa thương mại và thuận lợi hóa thương mại. Tuy nhiên, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới chính là xu hướng của các quốc gia với các đặc điểm và thay đổi về lượng và chất mà các hiệp định thương mại tự do truyền thống không có, cụ thể như sau:
Thứ nhất thay đổi về “lượng”, mức độ cam kết ngày càng sâu, rộng hơn so với các hiệp định thương mại tự do truyền thống. Nếu như các hiệp định thương mại tự do truyền thống chỉ tập trung vào thương mại hàng hóa và dịch vụ, thời gian sau đó bổ sung thêm vào lĩnh vực sở hữu trí tuệ và đầu tư,… các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới vẫn kế thừa các nội dung trên đồng thời bổ sung vào các nội dung về các nội dung liên quan đến thể chế kinh tế thị trường, mua sắm công, doanh nghiệp nhà nước,… Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới còn quy định cụ thể, bổ sung và xử lý sâu sắc hơn các vấn đề của các hiệp định thương mại tự do cũ như điều chỉnh giảm nhiều loại thuế quan hơn và phần lớn các thuế quan đã về 0%. Tuy nhiên, mức độ về điều kiện yêu cầu đáp ứng ngày càng được quy định chặt chẽ hơn, đòi hỏi sự phát triển và cố gắng của các nước thành viên.
Thứ hai, thay đổi về “chất” – điều chỉnh cả các vấn đề phi thương mại. Các vấn đề phi thương mại như lao động, công đoàn, môi trường, cạnh tranh, nhân quyền,… được đưa vào các hiệp định thương mại tự do thể hiện sự khác biệt về “chất” so với các hiệp định thương mại tự do trước đây. Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới dành sự quan tâm cho vấn đề lao động, một mặt giúp người lao động tại quốc gia được đối xử với điều kiện tốt hơn, một mặt còn giúp hài hòa và giảm ưu thế về chi phí nhân công giá rẻ tại nước xuất khẩu từ đó góp phần cân bằng lợi ích thương mại hơn.
Với việc tham gia vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), ngoài các lợi ích về kinh tế, thương mại, chúng ta cần chú trọng đến một số vấn đề pháp lý để đảm bảo việc tuân thủ và thực thi các hiệp định một cách tốt nhất. Việc ban hành mới, sửa đổi các văn bản pháp luật trong thời gian gần đây cho thấy tác động của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là rất lớn. Một số nội dung có thể kể đến như:
Thứ nhất, một số tác động đến quy định của Bộ luật lao động 2019. Với việc gia nhập các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Việt Nam thông qua và duy trì các nghĩa vụ theo ILO và Tuyên bố ILO về các Nguyên tắc và Quyền cơ bản tại nơi làm việc và những hành động tiếp theo như: “ tự do liên kết và công nhận một cách thực chất quyền thương lượng tập thể; chấm dứt mọi hình thức lao động cưỡng bức hoặc ép buộc; loại bỏ một cách hiệu quả lao động trẻ em; và chấm dứt phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp.[1]”. Với cam kết trên, Bộ luật lao động 2019 được ban hành và có một số điều chỉnh để phù hợp với hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã tham gia, theo đó đã bổ sung quy định mới chi tiết hơn về sử dụng lao động chưa thành niên được quy định tại chương XI; sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định về công đoàn và điểm mới về việc người lao động tại doanh nghiệp có quyền được thành lập hoặc gia nhập và tham gia hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được quy định tại chương XIII; nội dung về đối thoại tại nơi làm việc, thương lượng tập thể… được quy định tại chương V; chấm dứt cưỡng bức hoặc ép buộc lao động… Việc gia nhập sân chơi mới đòi hỏi Việt Nam phải nâng cao các giá trị của người lao động và có những biện pháp cần thiết để bảo vệ người lao động, ngăn chặn các hành vi vi phạm. Lấy ví dụ, việc quy định chi tiết hơn về việc sử dụng lao động chưa thành niên phù hợp với quy định tại các hiệp định CPTPP. CPTPP cho phép một bên có thể ngăn chặn, thông qua sáng kiến được cho là phù hợp để xử lý hành vi cưỡng bức lao động, đặc biệt là lao động trẻ em[2]. Theo đó hàng hóa từ quốc gia xuất khẩu được sản xuất toàn bộ hoặc một phần từ lao động vị thành niên không phù hợp hay lao động bị cưỡng bức/ép buộc thì có khả năng nước nhập khẩu sẽ từ chối nhập khẩu hàng hóa đó.
Thứ hai, quy định về vấn đề bảo vệ môi trường. Trước đây, vấn đề kinh doanh đi kèm với việc bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên chưa được chú trọng dù Việt Nam đã có rất nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh. Đặc biệt, hiện nay khi Việt Nam gia nhập các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, vấn đề bảo vệ môi trường là một trong các cam kết của hiệp định, đòi hỏi Việt Nam phải tuân thủ và đáp ứng, không vì lợi ích kinh tế mà giảm nhẹ tiêu chí và mức độ của việc bảo vệ môi trường để khuyến khích thương mại và thu hút đầu tư. Hiện này, mặc dù có rất nhiều văn bản pháp luật quy định liên quan đến việc bảo vệ môi trường nhưng nhìn chung vẫn chưa mang đến hiệu quả tốt nhất, còn bộc lộ một số hạn chế dẫn đến nhiều vụ việc về môi trường gây bức xúc cho người dân dù đã bị xử lý như hai vụ kể trên. Do đó, nhu cầu có một pháp luật về bảo vệ môi trường mới, hài hóa với nội dung và thực tiễn, phù hợp với các yêu cầu, tiêu chí được đặt ra trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là hết sức cần thiết. Tại dự thảo Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi), vấn đề thực hiện cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ozon được đặt ra, phù hợp với các cam kết trong hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cụ thể là chương XX về môi trường của CPTPP và chương XIII về thương mại và phát triển bền vững của EVFTA.
Thứ ba, về một số quy định về pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tại các nước phát triển, đặc biệt là châu Âu, vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ luôn được chú trọng. Do đó, khi Việt Nam tham gia hiệp định EVFTA hay CPTPP đòi hỏi pháp luật Việt Nam phải từng bước điều chỉnh và có sự chuẩn bị kỹ lưỡng để phù hợp với các nội dung đã được cam kết. Những cam kết ở mức độ ngày càng cao hơn và đòi hỏi Việt Nam phải chỉnh sửa nhiều nội dung để tương thích. CPTPP quy định rằng không bên nào yêu được yêu cầu dấu hiệu để được đăng ký nhãn hiệu là phải nhìn thấy được hoặc từ chối đăng ký một nhãn hiệu chỉ vì lý do dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu đó là âm thanh. Ngoài ra, một bên cần phải nỗ lực hết sức để đăng ký nhãn hiệu mùi[3]. Đây vốn là những nội dung chưa được pháp luật Việt Nam đề cập đến. Hiện nay, theo Quyết định số 999/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ban hành ngày 11/07/2020, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ là một trong các dự án luật thuộc chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021 và phải được trình cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào tháng 06/2021. Hy vọng rằng dự thảo Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ dự kiến được ban hành tháng 11/2020 tới đây sẽ có những điều khoản phù hợp với các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên. Ngoài ra, dưới quy định của CPTPP, một số nội dung xâm phạm liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (i) hành vi cố ý nhập khẩu hoặc xuất khẩu hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng sao lậu quyền tác giả ở quy mô thương mại; (ii) việc sao chép trái phép các tác phẩm điện ảnh từ buổi chiếu phim trong rạp, mà gây ra thiệt hại đáng kể cho chủ thể quyền với tác phẩm đó trên thị trường; (iii) bí mật thương mại,… được yêu cầu phải đưa vào tội hình sự.[4]
Tóm lại, việc gia nhập các hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội trong việc tiếp cận các thị trường trên thế giới, thu hút đầu tư, giúp cho việc giao thương hàng hóa, dịch vụ được thuận lợi hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và giúp Việt Nam vươn lên trở thành một thế lực trong khu vực nói riêng và thế giới nói chung. Tuy nhiên, đi kèm với các thuận lợi là rất nhiều áp lực đặt ra trong việc đưa ra chính sách phù hợp để bảo vệ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước trước sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài; việc điều chỉnh các chính sách, sửa đổi, ban hành các văn bản pháp luật cho phù hợp với các cam kết của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên.
[1] Khoản 2 Điều 13.4 của EVFTA và Khoản 1 Điều 19.3 của CPTTT
[2] Điều 19.6 của CPTPP
[3] Điều 18.18 của CPTPP
[4] Điều 18.77 và Điều 18.78 của CPTPP