Trong pháp luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam, đối với bảo hiểm phi nhân thọ, tồn tại một nguyên tắc cho phép người được bảo hiểm chuyển giao cho doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài quyền yêu cầu người thứ ba có hành vi gây thiệt hại chịu trách nhiệm bồi hoàn trong phạm vi số tiền bồi thường bảo hiểm. Nguyên tắc này được gọi là nguyên tắc thế quyền (principle of subrogation).
1. Khái niệm thế quyền
Tiền thân của học thuyết thế quyền được cho là xuất phát từ học thuyết Cessio Actionum của La Mã và được các thẩm phán người Anh áp dụng(1), dù thực tế là thuật ngữ thế quyền mà Luật Anh áp dụng thật sự không hoàn toàn đồng nhất với thế quyền trong Luật La Mã.(2) Sau đó học thuyết này bắt đầu lan rộng và đến nay nó được áp dụng rộng rãi trong pháp luật bảo hiểm.(3)
Về khái niệm của thế quyền, theo “A dictionary of Law” của đại học Oxford, thế quyền được hiểu là việc thay thế người này bằng người khác sao cho người được thay thế kế thừa các quyền của người kia. Do đó, một công ty bảo hiểm bồi thường cho người được bảo hiểm của mình về việc mất mát hàng hóa có thể được thay thế quyền của người được bảo hiểm đối với người thứ ba mà sự sơ suất của họ đã gây ra tổn thất.(4)
Tại Việt Nam, Khoản 4 Điều 16 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022 nêu rõ nguyên tắc thế quyền là việc người được bảo hiểm có trách nhiệm chuyển giao cho doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài (sau đây gọi chung là bên bảo hiểm) quyền yêu cầu người thứ ba có hành vi gây thiệt hại chịu trách nhiệm bồi hoàn trong phạm vi số tiền bồi thường bảo hiểm. Nguyên tắc này không áp dụng đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và hợp đồng bảo hiểm sức khỏe. Xét về cơ sở thế quyền, quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022 phù hợp với cơ chế thế quyền của Bộ luật Dân sự năm 2015 bởi Điều 365 của Bộ luật này cho phép bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thỏa thuận. Khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho người thế quyền thì người thế quyền trở thành bên có quyền yêu cầu. Trong quan hệ bảo hiểm phi nhân thọ, người thế quyền là bên bảo hiểm, bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ là người được bảo hiểm và nghĩa vụ trong trường hợp này là nghĩa vụ bồi thường của người thứ ba có hành vi gây thiệt hại cho người được bảo hiểm.
2. Điều kiện chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền mà bên bảo hiểm đã bồi thường
Việc thực hiện nguyên tắc thế quyền, tức chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền mà bên bảo hiểm đã bồi thường, được áp dụng khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, người thứ ba phải được xác định là có trách nhiệm bồi thường do hành vi gây thiệt hại cho người được bảo hiểm. Đây là nguyên tắc cơ bản của việc bồi thường bởi mọi thiệt hại, tổn thất chỉ được bồi thường nếu người thứ ba được xác định là có hành vi gây thiệt hại và phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, rủi ro và tổn thất xảy ra phải nằm trong phạm vi sự kiện bảo hiểm được qui định trong hợp đồng bảo hiểm. Không phải mọi rủi ro và tổn thất xảy ra thì bên bảo hiểm đều có trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm. Theo đó, chỉ những rủi ro, tổn thất nằm trong phạm vi bảo hiểm và không thuộc những trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, thì bên bảo hiểm mới có nghĩa vụ bồi thường cho người được bảo hiểm và sau đó thực hiện nguyên tắc thế quyền để truy đòi người thứ ba.
Thứ ba, bên bảo hiểm đã thực hiện trả tiền bồi thường cho người được bảo hiểm. Thay vì người được bảo hiểm có thể trực tiếp yêu cầu người thứ ba gây thiệt hại phải bồi thường, người được bảo hiểm có quyền nhận tiền bồi thường từ bên bảo hiểm trước và bên bảo hiểm sẽ thực hiện việc yêu cầu người thứ ba bồi hoàn lại số tiền đã trả cho người được bảo hiểm.
Ngoài ra, cần lưu ý rằng, khác với pháp luật một số quốc gia trên thế giới, nguyên tắc thế quyền theo Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022 của Việt Nam chỉ được áp dụng cho các hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ (Hợp đồng bảo hiểm tài sản; Hợp đồng bảo hiểm thiệt hại; Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm)(5) mà không áp dụng cho hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và hợp đồng bảo hiểm sức khỏe. Trong khi đó, tại Hoa Kỳ, chế định này tồn tại phổ biến trong nhiều hình thức hợp đồng bảo hiểm như bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm cho người khuyết tật hay cả những hợp đồng bảo hiểm được Chính phủ cung cấp như bảo hiểm cho công chứng viên, bảo hiểm của người lao động, bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ,…(6)
Bên cạnh đó, trường hợp người thứ ba có trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm là cha, mẹ, vợ, chồng, con của người được bảo hiểm thì bên bảo hiểm không được yêu cầu họ bồi hoàn khoản tiền mà bên bảo hiểm đã trả cho người được bảo hiểm, trừ trường hợp những người này cố ý gây ra tổn thất.(7)
3. Nghĩa vụ của người được bảo hiểm khi chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền mà bên bảo hiểm đã bồi thường
Theo quy định tại Điều 54 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, trường hợp người thứ ba có trách nhiệm bồi thường do hành vi gây thiệt hại cho người được bảo hiểm thì sau khi bên bảo hiểm trả tiền bồi thường, người được bảo hiểm có trách nhiệm chuyển cho bên bảo hiểm quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền mà bên bảo hiểm đã bồi thường. Trường hợp người được bảo hiểm từ chối chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn thì bên bảo hiểm có quyền khấu trừ số tiền bồi thường tùy theo mức độ lỗi của người được bảo hiểm. Căn cứ quy định này của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022, có thể thấy rằng, việc chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền mà bên bảo hiểm đã bồi thường là nghĩa vụ bắt buộc đối với người được bảo hiểm trong trường hợp họ đã nhận tiền bồi thường từ bên bảo hiểm.
Bên cạnh đó, khi bên bảo hiểm thực hiện quyền yêu cầu bồi hoàn đối với người thứ ba, người được bảo hiểm còn có trách nhiệm cung cấp cho bên bảo hiểm các tài liệu cần thiết và thông tin liên quan theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm để bên bảo hiểm thực hiện việc yêu cầu người thứ ba bồi hoàn.
Đối với người thứ ba, người được bảo hiểm còn phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin cho người thứ ba để đảm bảo việc tuân thủ quy định chung của Bộ luật Dân sự năm 2015 về nghĩa vụ thông báo việc chuyển giao quyền yêu cầu. Bởi lẽ Khoản 2 Điều 365 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp bên chuyển giao quyền yêu cầu không thông báo về việc chuyển giao quyền mà phát sinh chi phí cho bên có nghĩa vụ thì bên chuyển giao quyền yêu cầu phải thanh toán chi phí này.
Tóm lại, nguyên tắc thế quyền đóng vai trò quan trọng khi tạo cơ sở cho người được bảo hiểm quyền yêu cầu bên bảo hiểm chi trả trước tiền bồi thường nếu thuộc trách nhiệm bảo hiểm để có thể tiếp tục thực hiện hoạt động kinh doanh mà không phải mất thời gian yêu cầu người thứ ba gây thiệt hại bồi thường. Do đó, thế quyền đã và đang được áp dụng rộng rãi trên thực tế và cũng là một trong những nguyên tắc giúp người được bảo hiểm có nhu cầu sử dụng dịch vụ bảo hiểm của bên bảo hiểm.
(1) John Edwards & Co. v. Motor Union Insurance Co. Ltd., 2 K.B. 249,252 (1922).
(2) Giả sử A cho B vay tiền, trong đó C đứng ra bảo lãnh cho B. Sau đó, C được yêu cầu hoàn trả khoản vay cho A thì C sẽ thực hiện việc hoàn trả. Trong trường hợp này, theo luật Anh, C tự động được thay thế các quyền mà A có đối với B. Điều này xảy ra ngay lập tức và nếu cần thiết, thậm chí là trái với mong muốn của A. Nhưng theo luật La Mã, C không thể có được các quyền của A chống lại B trừ khi họ được nhượng lại cho anh ta một cách rõ ràng vào lúc hoặc trước khi hoàn trả. Xem: M. L. Marasinghe (1975), An Historical Introduction to the Doctrine of Subrogation: The Early History of the Doctrine I, Valparaiso University Law Review, Vol 10, No. 1, pp. 48-49, https://scholar.valpo.edu/cgi/viewcontent.cgi?referer=&httpsredir=1&article=1680&context=vulr.
(3) Imtithal. Babiker Ahmed (2006), Some Aspects of the Doctrine of Subrogation in Insurance law, LLM Thesis, University of Khartoum, page 34, https://core.ac.uk/download/pdf/71675844.pdf.
(4) “The substitution of one person for another so that the person substituted succeeds to the rights of the other. Thus an insurer who indemnifies his insured against the loss of goods may be subrogated to the insured person’s rights against a third party whose negligence caused the loss.”
Elizabeth A. Martin, A Dictionary of Law (fifth edition), Oxford University Press, p. 483, https://www.ekhtebar.ir/wp-content/uploads/2018/10/Oxford-Dictionary-Of-Law.pdf.
(5) Khoản 1, Điều 15 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022.
(6) Nguyễn Minh Phú (2022), Kiến nghị hoàn thiện quy định về chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn trong hợp đồng bảo hiểm tài sản, Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn, số 58/2024, trang 122, https://tapchi.hul.edu.vn/index.php/jl/article/view/372/216.
(7) Khoản 3, Điều 54 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022.
Khuyến cáo:
Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý cho bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Các quy định pháp luật được dẫn chiếu trong nội dung bài viết có hiệu lực vào thời điểm đăng tải bài viết nhưng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đọc. Do đó, chúng tôi khuyến nghị bạn luôn tham khảo ý kiến của chuyên gia trước khi áp dụng.
Các vấn đề liên quan đến nội dung hoặc quyền sở hữu trí tuệ liên của bài viết, vui lòng gửi email đến cs@apolatlegal.vn.
Apolat Legal là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Tài chính. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi tại đây và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@apolatlegal.com.