Thỏa thuận trọng tài là một trong những điều kiện tiên quyết để tranh chấp giữa các bên có thể được giải quyết bằng Trọng tài. Theo đó, thỏa thuận trọng tài vô hiệu có thể dẫn đến hậu quả pháp lý là việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài không thể thực hiện được.
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 3 Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010, thoả thuận trọng tài được hiểu là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh. Theo đó, thỏa thuận trọng tài sẽ loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa án và đưa tranh chấp giữa các bên ra giải quyết bằng Trọng tài bởi lẽ Điều 6 Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010 đã quy định trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Hiện tại, những trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu đang được quy định tại Điều 18 Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010 và được hướng dẫn tại Điều 3 Nghị Quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội Đồng Thẩm Phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao (“Nghị Quyết 01/2014”) như sau:
Trường hợp 1: Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010.
Theo quy định tại Điều 2 Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010, Trọng tài có thẩm quyền giải quyết: (i) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (iii) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài. Theo đó, trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập để giải quyết tranh chấp không thuộc các lĩnh vực này thì thỏa thuận trọng tài sẽ vô hiệu.
Trường hợp 2: Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Theo hướng dẫn tại Khoản 2, Điều 3 Nghị Quyết 01/2014, trường hợp người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật được hiểu là trường hợp người xác lập thỏa thuận trọng tài không phải là người đại diện theo pháp luật hoặc không phải là người được ủy quyền hợp pháp hoặc là người được ủy quyền hợp pháp nhưng vượt quá phạm vi được ủy quyền. Theo đó, về nguyên tắc thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập thì thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trường hợp thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập nhưng trong quá trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài không vô hiệu.
Trường hợp 3: Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.
Theo quy định tại Điều 19 Bộ Luật Dân Sự năm 2015, năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Theo đó, người không có năng lực hành vi dân sự sẽ không có đủ khả năng để xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Nghị Quyết 01/2014 đã hướng dẫn người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Do đó, trong trường hợp thỏa thuận trọng tài do những người này xác lập sẽ vô hiệu.
Trường hợp 4: Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010.
Theo quy định tại Điều 16 Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010, thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng. Tuy nhiên, dù xác lập dưới hình thức nào đi nữa, thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập không đảm bảo hình thức theo quy định tại Điều 16 của Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010, thỏa thuận trọng tài sẽ vô hiệu.
Trường hợp 5: Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Theo đó, trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào. Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Theo Điều 132 Bộ Luật Dân Sự năm 2015, lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó. Còn đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.
Thỏa thuận trọng tài vốn là một giao dịch dân sự giữa các bên vì nó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các bên trong việc giải quyết bằng Trọng tài. Do đó, trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập do một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này sẽ vô hiệu, với điều kiện là bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó vô hiệu.
Trường hợp 6: Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Theo Điều 128 Bộ Luật Dân Sự năm 2015, giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Với câu từ của Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010, có thể dẫn đến cách hiểu rằng pháp luật hiện chỉ quy định thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật thì mới bị vô hiệu, còn các thỏa thuận trọng tài trái đạo đức xã hội thì vẫn có hiệu lực. Tuy nhiên, để tránh sự nhầm lẫn này, Nghị Quyết 01/2014 đã hướng dẫn rõ thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật quy định tại Khoản 6, Điều 18 Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010 là thỏa thuận thuộc trường hợp quy định tại Điều 128 của Bộ Luật Dân Sự năm 2015, tức bao gồm trường hợp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Với các quy định và hướng dẫn rõ ràng của Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010 và Nghị Quyết 01/2014, các bên có ý định giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài cần lưu ý để đảm bảo việc xác lập thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp vô hiệu, làm cơ sở để tranh chấp giữa các bên có thể được giải quyết bằng Trọng tài.
Bài viết liên quan:
1/ Địa điểm trọng tài so với địa điểm phiên xử trọng tài?
2/ Tranh chấp nào được giải quyết bằng trọng tài thương mại?
3/ Các trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được theo quy định pháp luật Việt Nam
Khuyến cáo:
Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý cho bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Các quy định pháp luật được dẫn chiếu trong nội dung bài viết có hiệu lực vào thời điểm đăng tải bài viết nhưng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đọc. Do đó, chúng tôi khuyến nghị bạn luôn tham khảo ý kiến của chuyên gia trước khi áp dụng.
Các vấn đề liên quan đến nội dung hoặc quyền sở hữu trí tuệ liên của bài viết, vui lòng gửi email đến cs@apolatlegal.vn.
Apolat Legal là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Giải quyết tranh chấp. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi Giải quyết tranh chấp và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@apolatlegal.com.