Cuộc sống ngày càng phát triển với vật chất đầy đủ và dư dả hơn, con người càng mong muốn một cuộc sống hạnh phúc, an yên và bắt đầu nghĩ đến dự phòng cho những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai. Trước bối cảnh này, bảo hiểm ra đời với vai trò là một dịch vụ tài chính tối ưu, một cơ chế đảm bảo an sinh xã hội và là công cụ bảo vệ tốt nhất cho con người trước những rủi ro bất ngờ. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp chi phí bảo hiểm đều được chi trả khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Theo đó, nhiều trường hợp người mua bảo hiểm bị từ chối chi trả bảo hiểm với lý do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin. Vậy nghĩa vụ cung cấp thông tin là gì và người mua bảo hiểm (NMBH), người được bảo hiểm (NĐBH) và doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) cần làm gì để không vi phạm nghĩa vụ này? Trong phạm vi bài viết, tác giả sẽ tập trung làm rõ các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên trong hợp đồng bảo hiểm theo quy định của pháp luật Việt Nam.
1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Hiện tại, hợp đồng bảo hiểm được phân loại dựa trên đối tượng và quyền lợi được bảo hiểm, cụ thể có ba loại bao gồm hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Theo đó, đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người là sức khỏe, sự an toàn, tuổi thọ và tính mạng của con người. Tài sản là đối tượng được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản; và đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với bên thứ ba theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh các nội dung được các bên thỏa thuận, hợp đồng bảo hiểm bắt buộc phải có những nội dung sau:
a) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng;
b) Đối tượng bảo hiểm;
c) Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản;
d) Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm;
đ) Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm;
e) Thời hạn bảo hiểm;
g) Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm;
h) Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường;
i) Các quy định giải quyết tranh chấp;
k) Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng.
Đối với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, trước khi giao kết hợp đồng với NMBH, DNBH cần thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng mẫu với Sở Công Thương trong trường hợp hợp đồng được áp dụng trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc Bộ Công Thương trong trường hợp hợp đồng được áp dụng trên phạm vi cả nước hoặc áp dụng trên phạm vi từ hai tỉnh trở lên.
Theo quy định của pháp luật và trong nội dung tất cả các hợp đồng bảo hiểm hiện hành đều quy định rõ về trách nhiệm cung cấp thông tin của người mua bảao hiểm (NMBH), người được bảo hiểm (NĐBH) và doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH). Nghĩa vụ cung cấp thông tin của các chủ thể này đều dựa trên nguyên tắc đầy đủ, thiện chí và trung thực để các bên có thể đánh giá những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra từ đó quyết định việc có ký kết hợp đồng bảo hiểm hay không. Đồng thời, các thông tin được các bên cung cấp khi giao kết hợp đồng bảo hiểm cũng được dùng làm chứng cứ trước tòa khi xảy ra tranh chấp.
2. Nghĩa vụ cung cấp thông tin của NMBH
Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, NMBH có trách nhiệm cung cấp các thông tin cá nhân như tên, tuổi, tình hình tài chính, nhân thân, thông tin sức khỏe,… để DNBH xem xét, đánh giá việc chấp thuận hồ sơ yêu cầu bảo hiểm của NMBH, quyết định mức phí bảo hiểm phải đóng và giá trị bảo hiểm được hưởng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Để thuận tiện cho NMBH khai thông tin, trách mất thời gian, hầu hết các DNBH hiện nay đều sử dụng hình thức bảng câu hỏi để thu thập thông tin của NMBH. Các câu hỏi này đa phần đều được trả lời dưới dạng “có/không” và được ghi nhận tại phần hồ sơ yêu cầu bảo hiểm. Đối với những câu hỏi có câu trả lời là “có”, NMBH sẽ được yêu cầu cung cấp thêm thông tin tại phầnm mô tả chi tiết để lý giải nguyên do cho đáp án của mình. Nội dung chủ yếu của các câu hỏi thường xoay quanh các vấn đề về thói quen sinh hoạt, nghề nghiệp, tình trạng sức khỏe của NMBH và NĐBH.
Theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 18 Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm 2000, NMBH có trách nhiệm kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của DNBH. Theo đó, NMBH có trách nhiệm phải thực hiện khai nhận thông tin và trả lời các câu hỏi tại hồ sơ yêu cầu bảo hiểm một cách trung thực và đầy đủ. Bên cạnh đó, để nhấn mạnh tính bắt buộc thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin của NMBH, Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm 2000 còn dành hẳn Điều 19 – Trách nhiệm cung cấp thông tin, để quy định về vấn đề này. Theo đó, khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, NMBH có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của các thông tin đó.
Không chỉ dừng lại ở trách nhiệm cung cấp thông tin tại giai đoạnọan giao kết hợp đồng bảo hiểm, NMBH còn có trách nhiệm thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của DNBH.
Trong trường hợp, NMBH vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin thì DNBH có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ.
3. Nghĩa vụ cung cấp thông tin của DNBH
Tương tự NMBH, DNBH khi tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm cũng có trách nhiệm phải tuân thủ nghĩa vụ cung cấp thông tin. Theo đó, DNBH có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ cho NMBH và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của những thông tin do mình cung cấp.
Ngoài ra, xuất phát từ tính riêng tư và nhạy cảm của các thông tin do NMBH cung cấp, DNBH còn có trách nhiệm giữ bí mật, không được tiết lộ các thông tin do NMBH cung cấp với bên thứ ba, trừ trường hợp được NMBH đồng ý hoặc do yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
NMBH cũng có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và yêu cầu DNBH bồi thường nếu phát hiện DNBH cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Như vậy, có thể thấy, việc tuân thủ nghĩa vụ cung cấp thông tin là bắt buộc khi giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Nguyên nhân chính của vấn đề này xuất phát từ tính đặc thù của hợp đồng bảo hiểm. Theo đó, khác với các loại hợp đồng khác, bản chất của hợp đồng bảo hiểm là việc để dành quyền lợi tài chính của NMBH thông qua chuyển nhượng rủi ro cho DNBH. Rủi ro được chuyển nhượng là rủi ro hình thành trong tương lai và chưa thật sự tồn tại tại thời điểm giao kết hợp đồng nên sẽ rất khó để có thể dự đoán và ước định. DNBH chỉ có thể căn cứ vào những thông tin do NMBH cung cấp để dự đoán rủi ro từ đó xem xét có chấp thuận giao kết hợp đồng bảo hiểm hay không. Do đó, những thông tin do các bên cung cấp trước và trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm phải thật sự đầy đủ và trung thực.