Mất quyền phản đối trong tố tụng trọng tài

Trong tố tụng trọng tài, nếu một bên phát hiện Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài vi phạm quy định pháp luật hoặc thỏa thuận trọng tài thì có quyền phản đối. Tuy nhiên, việc phản đối của bên phát hiện không phải lúc nào cũng được chấp nhận. Theo đó, trường hợp bên phát hiện vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối với Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài trong thời hạn quy định thì sẽ mất quyền phản đối tại Trọng tài, hoặc tại Tòa án đối với những vi phạm đó. 

1. Quy định về mất quyền phản đối trong tố tụng trọng tài 

Trong pháp luật quốc tế, tồn tại một nguyên tắc yêu cầu một quốc gia phải nhất quán trong ứng xử và không được bác bỏ một thực tế đã được chính quốc gia này thừa nhận trước đó được gọi là nguyên tắc “estoppel” hay “venire contra factum proprium”.(1) Với mục đích bảo vệ các thủ tục trọng tài và đảm bảo hiệu quả trong quá trình trọng tài, Luật Mẫu Về Trọng Tài Thương Mại Quốc Tế Của Ủy Ban Liên Hiệp Quốc Tế Về Luật Thương Mại Quốc Tế (UNCITRAL Arbitration Rules) đã áp dụng nguyên tắc “estoppel” hay “venire contra factum proprium” vào tố tụng trọng tài với tên gọi “Khước từ quyền phản đối” (Waiver of right to object).(2) Theo Điều 32 Luật Mẫu của UNCITRAL, việc khước từ quyền phản đối được quy định như sau: 

Điều 4: Khước từ quyền phản đối 

Khi một bên biết rằng bất kì Điều khoản của Luật này có thể bị các bên làm tổn hại, hoặc bất kì yêu cầu nào theo thoả thuận trọng tài chưa được tuân thủ và vẫn tiếp tục tiến hành trọng tài mà không tuyên bố sự phản đối của mình về những việc không chấp hành đó trong thời hạn cho phép thì sẽ xem như đã từ bỏ quyền phản đối của mình.” 

Căn cứ quy định nêu trên, một bên chỉ được chấp nhận sự phản đối của mình đối với việc không tuân thủ Luật Mẫu của UNCITRAL hoặc thỏa thuận trọng tài nếu sự phản đối này được đưa ra trong thời hạn cho phép. Tại Việt Nam, Điều 13 Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010 (“Luật TTTM”) quy định về việc mất quyền phản đối như sau: 

Điều 13. Mất quyền phản đối 

Trong trường hợp một bên phát hiện có vi phạm quy định của Luật này hoặc của thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối những vi phạm trong thời hạn do Luật này quy định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Tòa án.” 

Để làm rõ quy định nêu trên của Luật TTTM, Khoản 1, Điều 6 Nghị Quyết 01/2014/NQ-HĐTP đã hướng dẫn như sau: 

Điều 6. Mất quyền phản đối quy định tại Điều 13 Luật TTTM 

  1. Trường hợp một bên phát hiện có vi phạm quy định Luật TTTM hoặc của thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối với Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài những vi phạm đó trong thời hạn do Luật TTTM quy định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài, hoặc tại Tòa án đối với những vi phạm đã biết đó. Trường hợp Luật TTTM không quy định thời hạn thì thời hạn được xác định theo thỏa thuận của các bên hoặc quy tắc tố tụng trọng tài. Trường hợp các bên không thỏa thuận hoặc quy tắc tố tụng trọng tài không quy định thì việc phản đối phải được thực hiện trước thời điểm Hội đồng trọng tài tuyên phán quyết.”

Có thể thấy rằng, tương tự với Luật Mẫu UNCITRAL, Luật TTTM xem sự đồng thuận của các bên đối với hành động của Hội đồng trọng tài/Trung tâm trọng tài, dù hành động đó có vi phạm Luật TTTM hay thỏa thuận trọng tài, thì hành động này không được xem là vi phạm. Điều này được cho là xuất phát từ việc ý chí của các bên tranh chấp có vai trò chi phối, vai trò quyết định rất lớn trong tố tụng trọng tài nên khi một trong các bên phát hiện vi phạm của trọng tài mà không phản đối, được coi là các bên đã lựa chọn hoạt động đó.(3) Để phản đối sự vi phạm này, các bên cần phải đưa ra sự phản đối của mình trong một thời hạn nhất định. Phân tích quy định của Luật TTTM và Nghị Quyết 01/2014/NQ-HĐTP, thời hạn để thực hiện quyền phản đối được xác định theo thứ tự sau: (i) Theo quy định của Luật TTTM; (ii) Theo thỏa thuận của các bên hoặc theo Quy tắc tố tụng trọng tài; hoặc (iii) Thực hiện trước thời điểm Hội đồng trọng tài tuyên phán quyết.(4) 

2. Ngoại lệ của việc mất quyền phản đối 

Với những phân tích nêu trên, dường như việc một bên vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối với Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài những vi phạm mà mình phát hiện thì được xem là mất quyền phản đối. Hậu quả là bên đó không thể viện dẫn những căn cứ này để khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài, yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đối với những vi phạm đã mất quyền phản đối đó. Đồng thời, Tòa án cũng sẽ không căn cứ vào các vi phạm mà một hoặc các bên đã mất quyền phản đối để quyết định chấp nhận yêu cầu của một hoặc các bên.(5) 

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, Khoản 3, Điều 6 Nghị Quyết 01/2014/NQ-HĐTP quy định về một trường hợp ngoại lệ về việc Tòa án có quyền quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu hủy phán quyết trọng tài ngay cả khi một hoặc các bên đã mất quyền phản đối. Cụ thể, trường hợp phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam sẽ bị hủy theo quy định tại điểm đ, Khoản 2, Điều 68 Luật TTTM bất kể khi một hoặc các bên đã mất quyền phản đối. 

3. Thực tiễn áp dụng 

Trên thực tế, các Tòa án Việt Nam đã và đang áp dụng một cách rộng rãi quy định về mất quyền phản đối của Điều 13 Luật TTTM. Các phán quyết của Tòa án về việc yêu cầu hủy phán quyết trọng tài có áp dụng Điều 13 Luật TTTM có thể tham khảo như Quyết định số 04/2022/QĐ-PQTT ngày 21/3/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.(6) Quyết định số 06/2020/QĐ-PQTT ngày 07/12/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hải Phòng.(7) Quyết định số 1644/2022/QĐ-PQTT ngày 23/9/2022 của Tòa án dân nhân Thành phố Hồ Chí Minh.(8)

Một trong những vụ việc mà Tòa án áp dụng quy định của Điều 13 Luật TTTM có thể kể đến là Quyết định số 755/2018/QĐ-PQTT ngày 12/6/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc dân sự “Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài”, đã được phát triển thành Án lệ số 69/2023/AL. Mặc dù nội dung Án lệ nêu trên liên quan việc xác định tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tranh chấp thỏa thuận bảo mật thông tin và không cạnh tranh nhưng tại phần nhận định của Tòa án, Hội đồng xét đơn đã viện dẫn quy định của Điều 13 Luật TTTM để không chấp nhận ý kiến của bị đơn (người yêu cầu hủy phán quyết trọng tài) về việc phản đối thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Cụ thể, một trong những lý do mà bị đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là thỏa thuận trọng tài vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật và vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài do tranh chấp về NDA sẽ do Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, Hội đồng xét đơn nhận định rằng trong Bản tự bảo vệ của bị đơn cũng như trong suốt quá trình tố tụng trọng tài, bị đơn không hề đưa ra bất cứ phản đối nào đối với thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục tố tụng trọng tài, vẫn tham gia phiên họp giải quyết tranh chấp. Như vậy, bị đơn đã mất quyền phản đối về thỏa thuận trọng tài theo các quy định tại Điều 13 Luật TTTM, Điều 6 Nghị Quyết 01/2014/NQ-HĐTP và Điều 9 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC.(9) 

Trên thực tế, khi tham gia tố tụng trọng tài, việc một bên có sự không nhất quán trong quan điểm/hành vi của mình dù cho quan điểm/hành vi đó đã được bên đó thừa nhận trước đó là không hiếm gặp. Trong nhiều trường hợp, việc không nhất quán này lại nhằm mục đích có lợi cho bên đó. Tuy nhiên, điều này lại mang đến sự không hiệu quả, công bằng và tính ràng buộc đối với các bên khi tham gia giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Do đó, việc áp dụng triệt để các quy định về mất quyền phản đối trọng tố tụng trọng tài sẽ hạn chế được những hạn chế vừa nêu. 

(1) Nguyễn Bá Diến (2010), Áp dụng các nguyên tắc về thụ đắc lãnh thổ trong Luật quốc tế giải quyết hòa bình các tranh chấp ở biển Đông, Nghiên cứu Biển Đông

https://nghiencuubiendong.vn/nguyen-ba-dien-ap-dung-cac-nguyen-tac-ve-thu-dac-lanh-tho-trong-luat-quoc-te-giai-quyet-hoa-binh-cac-tranh-chap-o-bien dong.44162.anews#_ftn24. 

(2) UN. Secretary-General (1985), Analytical Commentary on Draft Text of a Model Law on International Commercial Arbitration: Report of the Secretary General, https://digitallibrary.un.org/record/85728?v=pdf#files. 

(3) Tưởng Duy Lượng (2018), Một số vấn đề về xem xét hủy phán quyết trọng tài, Tạp Chí Tòa Án Nhân Dân Điện Tử, https://tapchitoaan.vn/mot-so-van-de-ve-xem-xet-huy-phan-quyet-trong-tai. 

(4) Nguyễn Thị Thu Trang (2024), Một số vướng mắc trong áp dụng pháp luật trọng tài thương mại để giải quyết các tranh chấp Quốc tế tại Việt Nam, Tạp Chí Điện Tử Pháp Lý, https://phaply.net.vn/mot-so-vuong-mac-trong-ap-dung-phap-luat-trong-tai-thuong-mai-de-giai-quyet-cac-tranh-chap-quoc-te-tai-viet-nam-a249355.html. 

(5) Khoản 2, Điều 6 Nghị Quyết 01/2014/NQ-HĐTP. 

(6) https://congbobanan.toaan.gov.vn/5ta930075t1cvn/Agri__Trong_tai.pdf. 

(7) https://congbobanan.toaan.gov.vn/3ta665206t1cvn/. 

(8) https://congbobanan.toaan.gov.vn/5ta1288245t1cvn/HOP_XET_YC_HPQTT_NAM_PHAT_DAT_goc_da_ma_hoa.pdf. 

(9) https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/chitietanle?dDocName=TAND315866. 

Bài viết liên quan:

  1. Xác định tư cách tham gia tố tụng của chủ doanh nghiệp tư nhân

  2. Các thành tố của một thỏa thuận trọng tài

 

Khuyến cáo:

Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý cho bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Các quy định pháp luật được dẫn chiếu trong nội dung bài viết có hiệu lực vào thời điểm đăng tải bài viết nhưng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đọc. Do đó, chúng tôi khuyến nghị bạn luôn tham khảo ý kiến của chuyên gia trước khi áp dụng.

Các vấn đề liên quan đến nội dung hoặc quyền sở hữu trí tuệ liên của bài viết, vui lòng gửi email đến cs@apolatlegal.vn.

Apolat Legal là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Giải quyết tranh chấp. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi Giải quyết tranh chấp và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@apolatlegal.com.

Chia sẻ: share facebook share twitter share linkedin share instagram

Tìm hiểu cách chúng tôi có thể giúp doanh nghiệp của bạn

Khách hàng của chúng tôi

Liên hệ tư vấn



    Send Contact
    Call Us
    Zalo
    This site is registered on wpml.org as a development site. Switch to a production site key to remove this banner.