Khi xác định thu nhập làm căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân, bên cạnh các khoản được trừ như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định,… người nộp thuế còn được trừ đi mức giảm trừ gia cảnh, trong đó bao gồm mức giảm trừ gia cảnh đối với bản thân người nộp thuế và mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc. Trên thực tế, việc xác định người phụ thuộc để đăng ký giảm trừ gia cảnh là con, vợ/chồng, cha, mẹ của người nộp thuế là tương đối đơn giản. Tuy nhiên, đối với nhóm người phụ thuộc là các cá nhân khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế đang phải trực tiếp nuôi dưỡng vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc chứng minh quan hệ và nghĩa vụ nuôi dưỡng của người phụ thuộc và người nộp thuế.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 19 Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014), giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Có thể hiểu rằng, sở dĩ xuất hiện chế định giảm trừ gia cảnh là vì Nhà nước thường không đánh thuế vào phần thu nhập tối thiểu trung bình xã hội dùng để tái tạo sức lao động của người nộp thuế, bao gồm phần tái tạo sức lao động của bản thân người nộp thuế và phần để nuôi dưỡng những người phụ thuộc của người nộp thuế.(1) Hiện nay, theo Nghị quyết số 954/2020/UBTVQH14 ngày 02/6/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, mức giảm trừ gia cảnh được áp dụng từ kỳ tính thuế năm 2020 đối với đối tượng nộp thuế là 11 triệu đồng/tháng (132 triệu đồng/năm) và đối với mỗi người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng.
Để xác định người phụ thuộc, Điểm d, Khoản 1, Điều 9 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính đã hướng dẫn người phụ thuộc là những người thuộc các trường hợp sau đây:
- Con: con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú, con riêng của vợ, con riêng của chồng.
- Vợ hoặc chồng của người nộp thuế đáp ứng điều kiện tại Điểm đ Khoản 1 Điều này.
- Cha đẻ, mẹ đẻ; cha vợ, mẹ vợ (hoặc cha chồng, mẹ chồng); cha dượng, mẹ kế; cha nuôi, mẹ nuôi hợp pháp của người nộp thuế đáp ứng điều kiện tại Điểm đ Khoản 1 Điều này.
- Các cá nhân khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế đang phải trực tiếp nuôi dưỡng và đáp ứng điều kiện tại Điểm đ Khoản 1 Điều này.
Đối với trường hợp “các cá nhân khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế đang phải trực tiếp nuôi dưỡng” bao gồm các đối tượng sau đây:
- Anh ruột, chị ruột, em ruột của người nộp thuế.
- Ông nội, bà nội; ông ngoại, bà ngoại; cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột, bác ruột của người nộp thuế.
- Cháu ruột của người nộp thuế bao gồm: con của anh ruột, chị ruột, em ruột.
- Người phải trực tiếp nuôi dưỡng khác theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ cá nhân nào thuộc trường hợp nêu trên đều có thể trở thành người phụ thuộc mà cần phải đáp ứng thêm các điều kiện được quy định tại Điểm đ, Khoản 1, Điều 9 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính như sau:
- Đối với người trong độ tuổi lao động phải đáp ứng đồng thời các điều kiện: Bị khuyết tật, không có khả năng lao động và không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.
- Đối với người ngoài độ tuổi lao động phải không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.
Trên thực tế, người nộp thuế thường gặp khó khăn trong việc chứng minh quan hệ và nghĩa vụ nuôi dưỡng của người phụ thuộc và người nộp thuế, đặc biệt là việc chứng minh người phụ thuộc “không nơi nương tựa”. Hiện tại, pháp luật thuế của Việt Nam không trực tiếp quy định khái niệm “không nơi nương tựa” mà khái niệm này chỉ có thể được tham khảo thông qua các quy định sau đây:
- Khoản 5, Điều 4 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/04/2013 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh ưu đãi đối với người có công với cách mạng quy định “người sống cô đơn không nơi nương tựa là người sống độc thân, không có hoặc không còn thân nhân.”
- Điều 6 Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09/03/2000 của Chính phủ về chính sách cứu trợ xã hội quy định về người thuộc diện cứu trợ quy định những người thuộc diện cứu trợ xã hội thường xuyên tại xã, phường quản lý gồm:
1. Trẻ em mồ côi là trẻ em dưới 16 tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng và không còn người thân thích để nương tựa; trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ, nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích theo quy định tại Điều 88 của Bộ Luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật;
2. Người già cô đơn không nơi nương tựa là người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân. Người già còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu, người thân thích để nương tựa, không có nguồn thu nhập. Trường hợp là phụ nữ cô đơn không nơi nương tựa, không có nguồn thu nhập, từ đủ 55 tuổi trở lên, hiện đang được hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội vẫn tiếp tục được hưởng;
Người tàn tật nặng không có nguồn thu nhập và không có nơi nương tựa; người tàn tật nặng tuy có người thân thích nhưng họ già yếu hoặc gia đình nghèo không đủ khả năng kinh tế để chăm sóc;
3. Người tâm thần mãn tính là người mắc bệnh tâm thần thuộc các loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên giảm và có kết luận bệnh mãn tính, sống độc thân không nơi nương tựa hoặc gia đình thuộc diện đói nghèo.
Tham khảo các quy định nêu trên, người “không nơi nương tựa” có thể được xác định là người không có hoặc không còn con hoặc vợ/chồng trong độ tuổi lao động, có sức khỏe bình thường, có khả năng lao động. Việc xác định người “không nơi nương tựa” này cũng phù hợp với hướng dẫn của Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh tại Công văn số 6087/CT-TTHT ngày 29/6/2016. Do đó, người nộp thuế có thể thực hiện việc đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc là cá nhân không nơi nương tựa mà người nộp thuế đang phải trực tiếp nuôi dưỡng nếu đáp ứng các điều kiện nêu trên.
Tóm lại, giảm trừ gia cảnh là một chính sách mang lại nhiều ý nghĩa tích cực cho người lao động, đảm bảo công bằng thuế cũng như thể hiện tính nhân văn trong chính sách thuế. Về mặt xã hội và đạo đức, việc giảm trừ gia cảnh trong trường hợp có người sống phụ thuộc nhằm giảm gánh nặng tài chính cho người lao động, khuyến khích người lao động chăm lo cho gia đình. Do đó, người nộp thuế cần hiểu rõ quy định pháp luật để áp dụng trong việc đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc, đặc biệt là trường hợp người thân không nơi nương tựa mà người nộp thuế đang phải trực tiếp nuôi dưỡng.
(1) Bùi Thị Mến (2021), Thực trạng chính sách giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, Số 233 – Tháng 10/2021, https://hvnh.edu.vn/tapchi/vi/thang-10-2021/bui-thi-men-thuc-trang-chinh-sach-giam-tru-gia-canh-khi-tinh-thue-thu-nhap-ca-nhan-o-viet-nam-570.html.
Khuyến cáo:
Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý cho bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Các quy định pháp luật được dẫn chiếu trong nội dung bài viết có hiệu lực vào thời điểm đăng tải bài viết nhưng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đọc. Do đó, chúng tôi khuyến nghị bạn luôn tham khảo ý kiến của chuyên gia trước khi áp dụng.
Các vấn đề liên quan đến nội dung hoặc quyền sở hữu trí tuệ của bài viết, vui lòng gửi email đến cs@apolatlegal.vn.
Apolat Legal là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Lao động. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi tại đây và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@apolatlegal.com.