Bồi thường thiệt hại trong dịch vụ pháp lý

Hoạt động trợ giúp pháp lý được thiết lập dưới hình thức hợp đồng dịch vụ pháp lý, trong đó trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải tuân thủ những quy định chung của pháp luật dân sự nhưng cũng có những điểm đặc thù. Bài viết trình bày thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam và những đề xuất hoàn thiện về vấn đề này. 

1. Bồi thường thiệt hại trong dịch vụ pháp lý 

1.1 Bồi thường thiệt hại 

Hiện nay, Bộ luật Dân sự 2015 quy định rải rác trong mục Trách nhiệm dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại vì một số lý do: hoãn thực hiện nghĩa vụ1, không thực hiện nghĩa vụ giao vật2, do không thực hiện hoặc không được thực hiện một công việc3, do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ4, do vi phạm nghĩa vụ5 và trong chương XX về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 

Luật Thương mại 2005 cũng quy định về bồi thường thiệt hại tại Điều 302 “là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. 

Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác6. 

1.2 Dịch vụ pháp lý 

Ở Việt Nam, hiện nay trong các văn bản quy phạm pháp luật chưa có một quy định nào thể hiện thế nào là dịch vụ pháp lý. Cụm từ “dịch vụ pháp lý” được gắn với các cụm từ khác và nằm rải rác trong Bộ luật Dân sự 2015, Luật Thương mại 2005, Luật Luật sư 2006, sửa đổi bổ sung 2012, v.v – những văn bản quy phạm pháp luật được xem là cơ sở pháp lý cho hoạt động dịch vụ pháp lý tại Việt Nam. 

Có thể tiếp cận một định nghĩa dịch vụ pháp lý của Từ điển Luật học như sau “loại hình dịch vụ do tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện, nhằm đáp ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc được giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức cá nhân trong xã hội”7. 

Có nhiều tiêu chí để phân loại dịch vụ pháp lý có thể kể đến như: theo nhà cung cấp dịch vụ pháp lý, theo nội dung dịch vụ pháp lý, v.v8. Trong đó, việc phân loại dịch vụ pháp lý thường thấy nhất có lẽ là theo chủ thể cung cấp dịch vụ, cụ thể gồm: 

  • Dịch vụ pháp lý của luật sư. 
  • Dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề công chứng. 
  • Dịch vụ pháp lý của trung tâm trợ giúp pháp lý. 
  • Dịch vụ pháp lý của trọng tài thương mại. 
  • Dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề thừa phát lại. 

1.3 Bồi thường thiệt hại trong dịch vụ pháp lý 

Dịch vụ pháp lý ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của chính người yêu cầu dịch vụ hoặc của người thứ ba (ví dụ như người thân thích của người bị buộc tội đang bị giam, giữ yêu cầu luật sư bào chữa cho con em họ nhưng có thể xảy ra trường hợp người bị buộc tội từ chối luật sư9). Hơn nữa, dịch vụ pháp lý khó xác định chất lượng, không có cơ sở pháp lý để thỏa thuận chất lượng công việc và khó có thể đạt được sự rõ ràng, chính xác. Vì lẽ đó, trong mối quan hệ giữa các bên ẩn chứa những rủi ro không thể kiểm soát được và nếu có thiệt hại phát sinh vì nhiều nguyên nhân thì bồi thường là nội dung được chú ý hơn cả. 

Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong dịch vụ pháp lý phát sinh từ hợp đồng dịch vụ pháp lý. Mặc dù một số trường hợp không giao kết hợp đồng dưới tên hợp đồng dịch vụ pháp lý nhưng bằng các loại tài liệu khác như Phiếu yêu cầu của người yêu cầu công chứng cũng là một dạng thể hiện của hợp đồng. Như vậy, việc vi phạm một trong những nghĩa vụ của một trong các bên được xem là hành vi vi phạm hợp đồng, sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường nếu bên vi phạm có lỗi cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại cho bên kia, hay nói cách khác, bồi thường thiệt hại trong dịch vụ pháp lý là bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. 

Xuất phát từ nguyên tắc chung của pháp luật dân sự là tôn trọng, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên; khi các quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức bị xâm phạm, gây thiệt hại thì người vi phạm, gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự và biểu hiện của trách nhiệm dân sự cụ thể đó là việc bồi thường thiệt hại. Chính vì vậy, bồi thường thiệt hại trong dịch vụ pháp lý mang tính nguyên tắc chung như sau: 

  • Được xây dựng nên bởi các quy phạm điều chỉnh chế định hợp đồng. Trách nhiệm này phát sinh khi xuất hiện sự vi phạm một hay nhiều nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng, từ bên cung cấp dịch vụ pháp lý hay từ phía khách hàng. 

Dưới đây là một trong các vụ tranh chấp giữa thân chủ và luật sư liên quan vấn đề đòi bồi thường thiệt hại xảy ra thời gian qua. Ngày 21/3/2023, TAND Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên xét xử vụ án “Tranh chấp hợp đồng tư vấn pháp lý” giữa nguyên đơn là luật sư Đặng Đình Mạnh và bị đơn là bà Dư Thị Tuyết10. Sơ lược nội dung vụ kiện như sau: Năm 2017, bà Tuyết ký hợp đồng nhờ luật sư Mạnh đại diện trong vụ kiện yêu cầu chồng cũ, ông Vương Thành Kim, phân chia tài sản hôn nhân, với thù lao 10% giá trị tài sản được tuyên. Năm 2019, tòa sơ thẩm tuyên bà Tuyết được chia 11,5 tỷ đồng trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật. Sau đó ông Kim kháng cáo, nhưng ông đã rút đơn và tự nguyện nộp tiền thi hành án vào tháng 2/2020 (quá 3 tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật). Bà Tuyết khởi kiện luật sư Mạnh, yêu cầu bồi thường 7,4 tỷ đồng, cho rằng ông không yêu cầu phát mãi tài sản chung được đính giá 37,9 tỷ đồng theo phán quyết sơ thẩm, mà chỉ đồng ý nhận 11,5 tỷ đồng từ ông Kim, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bà. 

Bên cạnh các trường hợp thân chủ kiện luật sư đòi bồi thường thiệt hại, những vụ luật sư kiện thân chủ cũng diễn ra phổ biến. Đơn cử như tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý được TAND Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai trong các ngày 12/6/2018, 06/7/2018, 20/7/2018, 24/7/2018 và 20/8/2018 giữa Công ty Luật TNHH MTV K (gọi tắt là Công ty) và bà Trần Thị Mỹ T. Công ty và bà T ký kết hợp đồng với nội dung Công ty tư vấn giúp bà T giải quyết vụ kiện, thay mặt lập các thủ tục thi hành án tại cơ quan thi hành án, thay mặt nhận tiền hoặc tài sản từ cơ quan thi hành án. Khi Công ty phát hiện bà T đã đơn phương rút yêu cầu thi hành án nên yêu cầu thanh lý hợp đồng, thanh toán phí dịch vụ pháp lý đã thực hiện tuy nhiên bà T trốn tránh. Do đó, Công ty yêu cầu tòa án buộc bà T bồi thường số tiền theo nội dung hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký11. 

  • Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ràng buộc đối với cả tổ chức cung cấp dịch vụ pháp lý, không riêng cá nhân trực tiếp thực hiện công việc. 

Trong các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung 2012 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề luật sư12, của luật sư hành nghề cá nhân13 do lỗi của luật sư gây ra cho khách hàng trong khi thực hiện dịch vụ. Hoặc trong Luật Công chứng 2014, “tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng”14. 

Tuy nhiên, những trường hợp mà hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý phụ thuộc vào bên thứ ba dẫn đến kết quả của dịch vụ pháp lý hoàn toàn do bên thứ ba quyết định, ví dụ như hoạt động tranh tụng, luật sư vận dụng kỹ năng chuyên môn để bảo vệ quyền và lợi ích cho khách hàng, tuy nhiên kết quả vụ việc lại do tòa án quyết định. Mặt khác, đa phần kết quả của dịch vụ pháp lý chỉ biểu hiện sau khi trải qua một khoảng thời gian, khi này mới phát sinh thiệt hại thì vấn đề xác định thiệt hại và áp dụng biện pháp đòi bồi thường thiệt hại gặp nhiều khó khăn. 

2. Một số bất cập trong các quy định về bồi thường thiệt hại trong dịch vụ pháp lý  

Thực tế áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại trong dịch vụ pháp lý nảy sinh một số vấn đề cần giải quyết: 

2.1 Quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng chưa thống nhất giữa Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS) và Luật Thương mại 2005 (LTM) 

Dịch vụ pháp lý được coi là một loại dịch vụ mang tính thương mại, người cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm mục đích thu lợi, người sử dụng dịch vụ pháp lý được thỏa mãn những yêu cầu hiểu biết hay công việc cụ thể và phải trả phí dịch vụ. Tuy nhiên, giữa BLDS và LTM lại có những khác biệt nhất định gây khó khăn cho việc áp dụng khi giải quyết tranh chấp trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.  

  • Yếu tố lỗi: BLDS ghi nhận yếu tố lỗi là một trong các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thì trong LTM không ghi nhận yếu tố lỗi15. 

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các bên cung cấp dịch vụ pháp lý có đề cập đến yếu tố lỗi, phù hợp với tinh thần của BLDS hơn là LTM. 

  • Trường hợp miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng16:  
    • LTM quy định có 4 trường hợp: (i) xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận; (ii) xảy ra sự kiện bất khả kháng: (iii) hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; (iv) hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. 
    • BLDS không đưa “hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng” làm căn cứ miễn trách nhiệm bồi thường trong khi dịch vụ pháp lý rất khó để cụ thể hóa kết quả mà chỉ thực hiện công việc.  

Đơn cử luật sư có nghĩa vụ bảo đảm chất lượng dịch vụ pháp lý cung cấp cho khách hàng, tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến thức chuyên môn, các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của khách hàng theo quy định của pháp luật nhưng không thể cam kết kết quả. Từ đó dẫn đến rất nhiều trường hợp thân chủ khởi kiện luật sư khi không thể tiếp tục tiến hành vụ kiện do quyết định của Tòa án mặc dù luật sư đã thực hiện công việc bằng các biện pháp nghiệp vụ của mình.  

Do đó, đối với nội dung này, quy định của LTM có phần phù hợp hơn đối với bồi thường thiệt hại trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. 

  • Xác định giá trị bồi thường thiệt hại 
    • Theo Điều 360, BLDS, “[t]rường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Hiện nay, có hai cách hiểu quy định này. Thứ nhất, các bên có thể thỏa thuận một khoản tiền bồi thường thiệt hại nhất định trong hợp đồng. Thứ hai, các bên chỉ có thể thỏa thuận về việc bồi thường một phần hay toàn bộ thiệt hại thực tế phát sinh. 
    • Trong khi đó khoản 2, Điều 302, LTM chỉ rõ “giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Theo điều luật này, mức bồi thường thiệt hại chỉ có thể là mức thiệt hại thực tế trực tiếp và khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng. 

Thiệt hại bao gồm thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần, ngoài ra còn kể đến các khoản chi phí phải bỏ ra nhằm khắc phục hậu quả hoặc phát sinh do hành vi vi phạm của bên vi phạm như phân tích ở mục 2.3 dưới đây. Vậy nên tinh thần của quy định trong BLDS có phần hợp lý hơn khi quy định giá trị bồi thường thiệt hại là toàn bộ thiệt hại, nhưng cũng tôn trọng ý chí của các bên nếu có thỏa thuận về việc bồi thường thiệt hại khi ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý.  

2.2 Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp chưa được quan tâm  

Những người hành nghề chuyên môn cung cấp dịch vụ pháp lý phải thực hiện công việc, cung cấp dịch vụ với sự cẩn thận, chuyên môn đảm bảo yêu cầu với độ chính xác cao, tuy nhiên, thực tế vì nhiều lý do vẫn có thể gây thiệt hại cho khách hàng từ những hành động bất cẩn, những sai phạm hoặc thiếu sót trong quá trình thực hiện các công việc chuyên môn. Do đó, tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên trong dịch vụ pháp lý, góp phần hạn chế rủi ro do hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý mang lại, đồng thời niềm tin nơi khách hàng sẽ tăng cao hơn17. Ngày 10/08/2005, văn phòng luật sư Phan Trung Hoài là văn phòng luật sư đầu tiên tại Việt Nam mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho luật sư. 

Hiện nay pháp luật đã quy định bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là bảo hiểm bắt buộc đối với tổ chức hành nghề luật sư18, tổ chức hành nghề công chứng19, văn phòng thừa phát lại20.  

Dù vậy, rất ít tổ chức, cá nhân hành nghề dịch vụ pháp lý tham gia loại hình bảo hiểm này hoặc tham gia mang tính đối phó trong công tác kiểm tra vi phạm hành chính của cơ quan quản lý Nhà nước. Điều này dẫn đến tình trạng khi rủi ro xảy ra sẽ không bảo đảm an toàn tài chính cho cả tổ chức cá nhân cung cấp dịch vụ và khách hàng của họ. Bên cung cấp dịch vụ pháp lý thì bị ảnh hưởng không tốt đến danh dự nghề nghiệp và uy tín, hình ảnh; khách hàng bị thiệt hại không được bồi thường thỏa đáng sẽ có tâm lý lo ngại khi sử dụng dịch vụ pháp lý. 

Hơn nữa, nghĩa vụ bắt buộc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp mới chỉ mang tính khái quát, chung chung, không quy định rõ tiêu chí, định mức bảo hiểm phải mua, chế tài, v…v và gây khó khăn trong thực tiễn thi hành. Tại Việt Nam thực tế cũng chưa có tiền lệ xử phạt nào liên quan đến bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. 

2.3 Chi phí thuê luật sư chưa được thống nhất xác định là trách nhiệm bồi thường thiệt hại 

Các công việc và thông tin liên quan đến thiệt hại mà người bị thiệt hại không thể tự thu thập, chủ yếu phải được thực hiện thông qua luật sư, người đại diện theo ủy quyền, hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Do đó, chi phí thù lao hợp pháp và hợp lệ cho luật sư là khoản chi phí thực tế mà các bên tham gia tố tụng phải chịu để thực hiện các biện pháp khắc phục thiệt hại phát sinh từ hành vi của nguyên đơn, bị đơn, hoặc các bên có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Về bản chất, khoản chi này cần được coi là một dạng thiệt hại cần được bồi thường21. 

Hiện nay, trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, tổ chức, cá nhân lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mà gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác thì tổ chức, cá nhân bị thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án buộc bên lạm dụng thủ tục đó phải bồi thường cho những thiệt hại do việc lạm dụng gây ra, trong đó bao gồm chi phí hợp lý để thuê luật sư22. 

Theo khoản 3 Điều 144 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định thì “chi phí cho luật sư do người có yêu cầu tự chịu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Nghĩa là quy định pháp luật cũng đã mở cánh cửa cho các bên có thể đưa vấn đề chi phí thù lao luật sư như là một nội dung thỏa thuận mà một bên phải gánh chịu khi vi phạm nghĩa vụ dân sự. 

Tuy nhiên thực tiễn ở Việt Nam, theo quan điểm của cơ quan tư pháp thể hiện ở một số bản án có yêu cầu bồi hoàn chi phí luật sư như sau: “Hành vi vi phạm hợp đồng…không là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại phải thuê luật sư… nên yêu cầu bồi thường chi phí thuê luật sư của nguyên đơn… không có căn cứ và không được chấp nhận”23, hoặc “chi phí luật sư của … nguyên đơn… phải có trách nhiệm tự chi trả… không có cơ sở buộc bị đơn… phải thanh toán theo yêu cầu của nguyên đơn”24 hoặc “chi phí ông T yêu cầu không phải là chi phí tố tụng và không thuộc trường hợp phải bồi thường theo quy định của pháp luật nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông T là đúng quy định”25. Như vậy, trong các vụ kiện (trừ lĩnh vực sở hữu trí tuệ), yêu cầu bồi thường chi phí thuê luật sự thường không được chấp nhận.  

3. Kiến nghị hoàn thiện 

3.1 Đảm bảo sự thống nhất của các văn bản pháp luật 

Việc hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại, đặc biệt là bồi thường thiệt hại trong dịch vụ pháp lý không thể tiến hành một cách độc lập mà phải thống nhất, đồng bộ trong toàn bộ hệ thống pháp luật, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn, đặc biệt xét trong mối quan hệ giữa BLDS và LTM. Những quy định mang tính nguyên tắc cần được loại bỏ khỏi luật chuyên ngành và cần tham chiếu theo các quy định trong BLDS.  

3.2 Hoàn thiện các quy định về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ pháp lý 

Các tổ chức xã hội nghề nghiệp của bên cung cấp dịch vụ pháp lý như Liên đoàn luật sư Việt Nam, Hiệp hội công chứng viên Việt Nam,… phối hợp với các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm soạn thảo Hợp đồng bảo hiểm mẫu, cụ thể hóa các nguyên tắc về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho từng lĩnh vực dịch vụ pháp lý cung cấp. 

Ngoài ra, Bộ Tư pháp cần xây dựng hành lang pháp lý cho chế định bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp một cách rõ ràng, cụ thể hơn như quy định mức bảo hiểm tối thiểu bắt buộc phải mua, các chế tài nếu vi phạm mang tính răn đe hơn, v…v 

3.3 Thống nhất quan điểm chi phí luật sư là chi phí thực tế hợp lý được bồi thường thiệt hại 

Việc luật sư tham gia hỗ trợ pháp lý cho đương sự cần được thừa nhận là một nhu cầu cần thiết, hợp lý. Hơn nữa, khi xảy ra tranh chấp việc tòa tuyên buộc bên vi phạm phải bồi hoàn khoản phí này cũng là một cách ngăn ngừa các hành vi vi phạm tương tự. 

 

Bồi thường thiệt hại trong dịch vụ pháp lý là một vấn đề pháp lý phức tạp, đòi hỏi hệ thống pháp luật cần được hoàn thiện để đảm bảo tính đồng bộ và khả thi trong áp dụng. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng rõ ràng, minh bạch và thống nhất là một yêu cầu cấp thiết. Đặc biệt, cần chú trọng xây dựng quy định cụ thể về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp và công nhận chi phí thuê luật sư là một khoản thiệt hại hợp lý được bồi thường. Điều này không chỉ giúp nâng cao tính chuyên nghiệp và trách nhiệm của các tổ chức cung ứng dịch vụ pháp lý mà còn đảm bảo quyền lợi chính đáng của khách hàng, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành dịch vụ pháp lý tại Việt Nam. 

1 Bộ luật Dân sự 2015, Điều 354 khoản 1 

2 Bộ luật Dân sự 2015, Điều 356 khoản 3 

3 Bộ luật Dân sự 2015, Điều 358 khoản 1 

4 Bộ luật Dân sự 2015, Điều 359 

5 Bộ luật Dân sự 2015, Điều 360 

6 Nguyễn Minh Oanh, “Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại”, (Thông tin pháp luật dân sự, 05/05/2010) <https://phapluatdansu.edu.vn/2010/04/05/20/04/4702-2/>, truy cập ngày 22/01/2025. 

7 Bộ Tư pháp (2010), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội 

8 Hoàng Thị Vịnh (2014), Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, Hà Nội (Luận văn tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) 

9 Thông tư 46/2019/TT-BCA, Điều 4 

10 Thanh Phương, “Giúp thắng kiện, luật sư bị thân chủ đòi ngược hơn 7 tỷ đồng”, (VietNamNet, 21/3/2023) <https://vietnamnet.vn/giup-thang-kien-luat-su-bi-than-chu-doi-nguoc-hon-7-ty-dong-2122962.html>, truy cập ngày 22/01/2025 

11 Bản án số 759/2018/DS-PT ngày 20/08/2018 “V/v tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý” của Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh  

12 Luật Luật sư 2006, sửa đổi bổ sung 2012, Điều 40, khoản 5 

13 Luật Luật sư 2006, sửa đổi bổ sung 2012, ĐIều 52, khoản 2, điểm c 

14 Luật Công chứng 2014, Điều 38, khoản 1 

15 Nguyễn Thị Hồng Điệp, “Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử  18/05/2020), < https://tapchitoaan.vn/index.php/phap-luat-ve-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-do-vi-pham-hop-dong-thuong-mai-va-thuc-tien-ap-dung>truy cập ngày 22/01/2025 

16 Nguyễn Thị Hồng Điệp, “Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử  18/05/2020), < https://tapchitoaan.vn/index.php/phap-luat-ve-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-do-vi-pham-hop-dong-thuong-mai-va-thuc-tien-ap-dung>, truy cập ngày 22/01/2025 

17 Phan Trung Hoài, “Từng bước hoàn thiện các quy định pháp lý liên quan đến chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư”, (Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh), <https://hcmcbar.org/NewsDetail.aspx?CatPK=2&NewsPK=60 >, truy cập ngày 23/01/2025 

18 Luật Luật sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012, Điều 1 khoản 17 

19 Luật Công chứng 2014, Điều 33 khoản 5 

20 Nghị định 08/2020/NĐ-CP, Điều 18 khoản 2 điểm đ 

21 Phan Trung Hoài, “Chi phí dịch vụ pháp lý”, (Báo Lao động, 02/12/2011) <https://laodong.vn/archived/chi-phi-dich-vu-phap-ly-710601.ldo> truy cập ngày 22/01/2025  

22 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ 2019, Điều 2, khoản 10 

23 Bản án số 01/2013/KDTM-ST ngày 23/01/2013 “v/v tranh chấp hợp đồng mua bán thép” của Tòa án nhân dân huyện MH tỉnh HY 

24 Bản án số 17/2014/LĐ-ST ngày 04/08/2014 “v/v đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” của Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh 

25 Bản án số 02/2019/LĐ-PT ngày 29/05/2019 “v/v tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận 

Bài viết liên quan:

1/ Thỏa Thuận Bồi Thường Thiệt Hại Ước Tính

2/ Chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng

3/ Bồi thường thiệt hại trong vụ kiện xâm phạm quyền tác giả theo quy định của pháp luật Việt Nam


Khuyến cáo:

Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý cho bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Các quy định pháp luật được dẫn chiếu trong nội dung bài viết có hiệu lực vào thời điểm đăng tải bài viết nhưng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đọc. Do đó, chúng tôi khuyến nghị bạn luôn tham khảo ý kiến của chuyên gia trước khi áp dụng.

Các vấn đề liên quan đến nội dung hoặc quyền sở hữu trí tuệ của bài viết, vui lòng gửi email đến cs@apolatlegal.vn.

Apolat Legal là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Rà Soát & Soạn Thảo Hợp Đồng. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi tại đây và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@apolatlegal.com.

Chia sẻ: share facebook share twitter share linkedin share instagram

Tìm hiểu cách chúng tôi có thể giúp doanh nghiệp của bạn

Khách hàng của chúng tôi

Liên hệ tư vấn



    Send Contact
    Call Us
    Zalo