Xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh

Mạng xã hội, các nền tảng phát sóng trực tuyến dường như không còn xa lại với mỗi cá nhân chúng ta. Sự phát triển của mạng xã hội chính là chất xúc tác làm gia tăng các hành vi xâm phạm quyền tác giả. Trong những năm trở lại đây, một trong những vụ việc xâm phạm quyền tác giả nổi tiếng tại Việt Nam có thể kể đến là vụ việc “phimmoi.net” – một trong những website phim lậu hàng đầu tại Việt Nam đã bị khởi tố. Bên cạnh đó, việc ăn cắp ý tưởng từ một bộ phim dường như không còn mới mẻ vì những hành vi này liên tục xuất hiện và một trong những vấn đề mà người làm phim không muốn gặp phải. Trước khi tiến hành xử lý xâm phạm, chúng ta cần phải xác định liệu hành vi sao chép đó được xem là hành vi xâm phạm quyền tác giả theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành. Bài viết này sẽ làm rõ hơn về hành vi xâm phạm quyền tác giả theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành: 

Xem thêm: Nhận diện hành vi xâm phạm quyền tác giả dưới lăng kính pháp lý

1. Khái niệm tác phẩm điện ảnh theo quy định pháp luật Việt Nam 

Tác phẩm điện ảnh là một trong những loại hình tác phẩm được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả. Cụ thể, tác phẩm điện ảnh được định nghĩa tại khoản 6 Điều 6 Nghị định 17/2023/NĐ-CP:  

Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự là tác phẩm có nội dung, được biểu hiện bằng hình ảnh động liên tiếp hoặc hình ảnh do các thiết bị kỹ thuật, công nghệ tạo ra; có hoặc không có âm thanh và các hiệu ứng khác theo nguyên tắc của ngôn ngữ điện ảnh. Hình ảnh tĩnh được lấy ra từ một tác phẩm điện ảnh là một phần của tác phẩm điện ảnh đó. 

Tác phẩm điện ảnh không bao gồm bản ghi hình nhằm mục đích phổ biến tin tức trên dịch vụ phát thanh, truyền hình, không gian mạng; chương trình biểu diễn nghệ thuật, trò chơi điện tử; bản ghi hình về hoạt động của một hoặc nhiều người, mô tả các sự kiện, tình huống hoặc chương trình thực tế.” 

Tác phẩm điện ảnh trong một số trường hợp là một định nghĩa rộng, và liệu tác phẩm điện ảnh có thể bao gồm cả phim hay không? Điểm này đã được làm rõ tại khoản 2 Điều 3 Luật Điện ảnh 2022, theo đó: 

“Phim là tác phẩm điện ảnh, có nội dung, được biểu hiện bằng hình ảnh động liên tiếp hoặc hình ảnh do các thiết bị kỹ thuật, công nghệ tạo ra; có hoặc không có âm thanh và các hiệu ứng khác theo nguyên tắc của ngôn ngữ điện ảnh; được ghi trên các chất liệu, bằng kỹ thuật số hoặc phương tiện kỹ thuật khác và được phổ biến đến người xem, bao gồm các loại hình phim truyện, phim tài liệu, phim khoa học, phim hoạt hình và phim kết hợp nhiều loại hình. 

Phim không bao gồm sản phẩm ghi hình nhằm mục đích phổ biến tin tức trên dịch vụ phát thanh, truyền hình, không gian mạng; chương trình biểu diễn nghệ thuật, trò chơi điện tử; sản phẩm ghi hình về hoạt động của một hoặc nhiều người, mô tả các sự kiện, tình huống hoặc chương trình thực tế.” 

Từ những quy định trên, có thể xác định rằng, phim là một trong những tác phẩm điện ảnh được bảo hộ tác giả, bao gồm cả những bộ phim ngắn được chiếu mạng hay trên truyền hình.  

2. Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả tại Việt Nam 

Nhằm xác định liệu một tác phẩm có hành vi xâm phạm quyền tác giả hay không, cần phải xác định các yếu tố được quy định tại Điều 64 Nghị định 17/2023/NĐ-CP: 

1. Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan 

  1. Có yếu tố xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trong đối tượng bị xem xét.
  2. Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan
  3. Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam.”

Xem thêm: Xử lí xâm phạm quyền tác giả ở Việt Nam

2.1 Đối tượng đang bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền tác giả: 

Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.1 Một tác phẩm sẽ được bảo hộ khi chúng được thỏa mãn 02 điều kiện chính: 

  • Có tính định hình (fixation): tác phẩm phải thể hiện dưới dạng vật chất nhất định; 
  • Có tính nguyên gốc (originality): tác phẩm phải được chính tác giả sáng tạo ra tác phẩm, và tác phẩm này phải là kết quả của sự sáng tạo nguyên bản đầu tiên.  

Theo đó, thời điểm phát sinh quyền tác giả sẽ là thời điểm tác phẩm được định hình mà không cần phải thực hiện bất kỳ thủ tục đăng ký nào. Thế nhưng, việc chứng minh quyền tác giả của chủ sở hữu quyền tác giả sẽ khó khăn nếu như chủ sở hữu quyền tác giả không tiến hành đăng ký bảo hộ quyền tác giả tại Cục Bản quyền tác giả. Việc tiến hành đăng ký sẽ tạo dựng một chứng cứ hữu hình cho chủ sở hữu quyền tác giả khi tiến hành xử lý xâm phạm.  

2.2 Có yếu tố xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trong đối tượng bị xem xét:

Những hành vi được xác định là có yếu tố xâm phạm quyền tác giả được quy định tại Điều 66 Nghị định 17/2023/NĐ-CP, bao gồm cả hành vi có yếu tố sao chép. Theo quy định tại khoản 3 Điều 66 Nghị định 16/2023/NĐ-CP: “Để xác định một bản sao hoặc tác phẩm có phải là yếu tố xâm phạm quyền tác giả hay không, cần so sánh bản sao hoặc tác phẩm đó với bản gốc tác phẩm hoặc tác phẩm gốc, tính nguyên gốc của sự sáng tạo tác phẩm, sự thể hiện, biểu hiện của ý tưởng sáng tạo tác phẩm; thời điểm hoàn thành tác phẩm; sự tiếp cận, thời gian, thời điểm tiếp cận của tác giả đối với tác phẩm đã có”.  

Từ quy định trên, việc một tác phẩm bị sao chép hoàn toàn và đăng tải lên các nền tảng mạng xã hội, các website phim được xác định là hành vi nhân bản tác phẩm cho mục đích thương mại mà không được sự đồng ý từ phía chủ sở hữu quyền tác giả. Phương thức sao chép hiện nay tương đối đa dạng và phong phú, chẳng hạn như quay lén, tạo một bản file mới,… 

Thế nhưng, không phải bất kỳ bộ phim nào tương tự nhau đều được xác định là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành không có bất kỳ hương dẫn nào hoặc quy định có liên quan về vấn đề này. Tham khảo các vụ án trên thế giới cùng với các bài viết phân tích về đánh giá mức độ vi phạm của hai tác phẩm điện ảnh, Tòa án và các chuyên gia dựa vào các yếu tố thiết yếu theo sau để đánh giá mức độ xâm phạm: (i) tuyến nhân vật, (ii) cốt truyện, (iii) bối cảnh và (iv) cảm nhận của khán giả khi xem giữa hai bộ phim.2 Việc đánh giá các yếu tố nêu trên sẽ được thực hiện song song, tức không có một yếu tố nào là chủ chốt.  

2.3 Người thực hiện không là chủ thể quyền tác giả: 

Nhằm chứng minh chủ thể xâm phạm quyền tác giả, trước hết chủ sở hữu quyền tác giả cần chứng minh quyền của mình đối với tác phẩm được bảo hộ và chủ thể thực hiện hành vi không có bất kỳ quyền nào đối với tác phẩm. Việc chứng minh sẽ được căn cứ dựa trên cơ sở phát sinh quyền, có thể thông qua Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả3. Thế nhưng, trên thực tế, không phải bất kỳ tác phẩm nào cũng sẽ được đăng ký bảo họ quyền tác giả tại Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong trường hợp này, chủ thể quyền tác giả cần phải chứng minh quyền tác giả của mình theo phương thức giả định4.  

2.4 Hành vi xâm phạm diễn ra tại Việt Nam: 

Điều kiện cuối cùng để chứng minh một hành vi xâm phạm sẽ dựa trên phạm vi lãnh thổ của hành vi xâm phạm đó. Đối với những hành vi xâm phạm có những vật thể xâm phạm hữu hình, việc chứng minh hành vi xâm phạm sẽ dễ dàng hơn. Cụ thể như một cá nhân sao chép một bộ phim và lưu trữ vào trong một đĩa CD hoặc USD nhằm mục đích thương mại. Hành vi sao chép và phân phối được thực hiện toàn bộ tại Việt Nam, cơ sở chứng minh hành vi xâm phạm sẽ dễ dàng hơn.  

Trên thực tế, hành vi sao chép tác phẩm có thể được thực hiện trên một không gian mạng không giới hạn lãnh thổ, như trên các trang mạng xã hội, website với các máy chủ đặt tại nhiều quốc gia khác nhau. Sự phát triển về công nghệ sẽ làm phức tạp hóa việc xác định phạm vi lãnh thổ. 

Khi một hành vi đáp ứng đầy đủ các yếu tố được quy định tại Điều 64 nêu trên, hành vi ấy sẽ được xác định là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Chủ sở hữu quyền tác giả có quyền áp dựng các biện pháp được quy định tại khoản 1 Điều 198a Luật Sở hữu trí tuệ để tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình, bao gồm các biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự. 

1 Khoản 1 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2020, 2022. 

2 Tham khảo vụ án R.G Anand vs M/S. Delux Films & Ors on 18 August, 1978; Rikki Bahar, The Copyright Infringment Test: A New Apporoach to Literary Misappropriation in Film, Pace Intellectual Property Sports & Entertainment law forum.  

3 Khoản 2 Điều 65 Nghi định 17/2023/NĐ-CP.  

4 Khoản 3 Điều 65 Nghị định 17/2023/NĐ-CP; Điều 198a và Điều 59 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2020 và 2022.  

 

Khuyến cáo:

Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý cho bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Các quy định pháp luật được dẫn chiếu trong nội dung bài viết có hiệu lực vào thời điểm đăng tải bài viết nhưng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đọc. Do đó, chúng tôi khuyến nghị bạn luôn tham khảo ý kiến của chuyên gia trước khi áp dụng.

Các vấn đề liên quan đến nội dung hoặc quyền sở hữu trí tuệ liên của bài viết, vui lòng gửi email đến cs@apolatlegal.vn.

Apolat Legal là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Sở hữu trí tuệ. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi Sở hữu trí tuệ và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@apolatlegal.com.

Chia sẻ: share facebook share twitter share linkedin share instagram

Tìm hiểu cách chúng tôi có thể giúp doanh nghiệp của bạn

Khách hàng của chúng tôi

Liên hệ tư vấn



    Send Contact
    Call Us
    Zalo
    This site is registered on wpml.org as a development site. Switch to a production site key to remove this banner.