Những quy định về mạng xã hội theo nghị định 147/2024/NĐ-CP

Trong thời đại công nghệ số hiện nay, mạng xã hội là nền tảng điện tử không thể thiếu của người dùng Internet. Hàng ngàn người dùng tham gia Facebook, Zalo, Tiktok, cùng nhau chia sẻ thông tin, trao đổi trực tuyến cũng kinh doanh mua bán trên không gian số. Thế nhưng, đi cùng với sự hiện đại hóa là những hệ lụy khôn lường. Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những bài báo về hiện trạng lừa đảo trên không gian mạng, các bài viết xúc phạm danh dự người khác, sự tràn lan của hàng giả hay phát ngôn bừa bãi trên các nền tảng phát sóng trực tiếp.  

Nhận thấy vấn đề cần được kiểm soát gắt gao, Chính Phủ đã ban hành Nghị định 147/2024/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng có hiệu lực ngày 25/12/2024 (sau đây gọi là “Nghị Định 147”). Nghi Định 147 trực tiếp điều chỉnh và kiểm soát gắt gao hơn với mạng xã hội. Bài viết này sẽ đưa ra những điểm mới về quy định mạng xã hội để doanh nghiệp có cách nhìn tổng quan về những quy định pháp lý liên quan đến mạng xã hội.  

1. Mạng xã hội được phân loại dựa trên số lượng người truy cập thường xuyên 

Nghị Định 147 phân loại mạng xã hội dựa trên số lượng người truy cập thường xuyên tại điểm a khoản 6 Điều 24 cụ thể như sau: 

  • Mạng xã hội có số lượng người truy cập thường xuyên lớn: Là mạng xã hội có tổng số lượt truy cập (total visits) thường xuyên trong 01 tháng (số liệu thống kê trung bình trong thời gian 06 tháng liên tục) từ 10.000 lượt trở lên hoặc có trên 1.000 người sử dụng thường xuyên trong tháng; 
  • Mạng xã hội có số lượng người truy cập thường xuyên thấp: Là các mạng xã hội có tổng số lượt truy cập (total visits) thường xuyên trong 01 tháng (số liệu thống kê trung bình trong thời gian 06 tháng liên tục) dưới 10.000 lượt hoặc có dưới 1.000 người sử dụng thường xuyên trong tháng. 

Với số lượng người truy cập càng lớn, cơ quan thẩm quyền cần có công cụ, phương tiện kiểm soát chặt chẽ hơn nhằm giảm thiểu các trường hợp tác động tiêu cực đến xã hội. Chính vì thế, pháp luật quy định rằng với những mạng xã hội với số lượng người truy cập mạng xã hội lớn phải xin Giấy phép cung cấp dịch vụ mạng xã hội. Riêng với mạng xã hội có số lượng người truy cập thường xuyên thấp, doanh nghiệp chỉ cần Giấy xác nhận thông báo cung cấp dịch vụ mạng xã hội.(1) 

Điều kiện để được cấp Giấy phép cung cấp dịch vụ mạng xã hội tương đối phức tạp, đòi hỏi các điều kiện gắt gao hơn đối với doanh nghiệp. Tuy vậy, mọi mạng xã hội đều phải đáp ứng các điều kiện chung được quy định tại khoản 4 Điều 25 Nghị Định 147 bao gồm:  

  • Là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam, có chức năng, nhiệm vụ hoặc ngành nghề đăng ký kinh doanh đã được đăng tải trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp phù hợp với dịch vụ mạng xã hội cung cấp; 
  • Đã đăng ký sử dụng tên miền để cung cấp dịch vụ mạng xã hội và đáp ứng quy định tại Điều 26 Nghị Định 147; 
  • Đáp ứng các điều kiện về tổ chức, nhân sự và kỹ thuật theo quy định tại Điều 27 Nghị Định 147; 
  • Có biện pháp quản lý nội dung, thông tin theo quy định tại Điều 28 Nghị Định 147. 

2. Các quy định pháp luật về hoạt động phát sóng trực tiếp  

Trong khoảng thời gian dịch bệnh Covid – 19, khi hoạt động giao thương dường như không thể diễn ra, livestream là một phương tiện giúp kết nối mọi người lại với nhau. Hoạt động phát sóng trực tiếp tạo nên sự kết nối rộng mở giữa nhiều cá nhân, làm tăng mức độ tương tác. Thế nhưng, việc phát triển đi cùng với những sự phát triển là những hệ lụy không lường như hàng giả tăng trên diện rộng, nhiều thành phần truyền bá tin giả hay xúc phẩm danh dự người khác.  

Nhận thấy những tác động của livestream, pháp luật đã chính thức bổ sung những quy định quản lý hoạt động livestream. Trong đó, livestream là tính năng cho phép các tài khoản trên các mạng xã hội hoặc trên các nền tảng số phục vụ giao dịch điện tử truyền tải trực tuyến các nội dung, các dữ liệu dưới dạng âm thanh, hình ảnh theo thời gian thực.(2)  

Với những tác động của livestream, Nghị Định 147 ràng buộc mọi trang mạng xã hội có tính năng livestream hoặc hoặc cung cấp các hoạt động có phát sinh doanh thu dưới mọi hình thức đều phải xin Giấy phép cung cấp dịch vụ mạng xã hội.(3) Riêng với mạng xã hội có số lượng người truy cập thường xuyên thấp nếu có nhu cầu cung cấp tính năng livestream hoặc cung cấp các hoạt động có phát sinh doanh thu thì có thể thực hiện thủ tục cấp Giấy phép cung cấp dịch vụ mạng xã hội. Nhìn chung, các trang mạng xã hội có hoạt động livestream đều phải xin Giấy phép cung cấp mạng xã hội.  

Về phía người dùng khi muốn thực hiện các hoạt động livestream với mục đích thương mại, đều sẽ phải xác thực tài khoản bằng số định danh cá nhân theo quy định của pháp luật về định danh và xác thực điện tử.(4) 

3. Thời hạn của Giấy phép cung cấp dịch vụ mạng xã hội đã bị giảm xuống 

Thời hạn cấp Giấy phép cung cấp mạng xã hội được quy định tại Nghị Định 147 đã bị giảm hơn so với Nghị định 72/2013/NĐ-CP. Theo đó, Nghị định 72/2013/NĐ-CP quy định thời hạn của giấy phép là 10 năm theo đề nghị của tổ chức, cá nhân.(5)  

Thế nhưng Nghị Định 147 đã rút ngắn thời hạn, trong đó tổ chức, cá nhân chỉ được đề nghị với thời hạn tối đa không quá 5 năm.(6) Giấy phép được gia hạn không quá 01 lần và không quá 02 năm.(7) Tức có nghĩa, Giấy phép cung cấp mạng xã hội có thời hạn tối đa là 07 năm, hết thời hạn cho phép thì doanh nghiệp phải xin cấp mới giấy phép. 

4. Doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội phải thực hiện báo cáo định kỳ 

Trước ngày 25/11 hàng năm, doanh nghiệp được cấp Giấy phép cung cấp mạng xã hội thực hiện công tác báo cáo đến cơ quan có thẩm quyền theo Mẫu số 15 tại Phụ lục được đính kèm theo Nghị Định 147.(8) Theo đó, doanh nghiệp có thể nộp báo cáo thông qua 02 (hai) phương thức: 

  • Nộp báo cáo trực tiếp hoặc thông qua dịch vụ bưu chính tới Bộ Thông tin và Truyền thông (Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử) và Sở Thông tin và Truyền thông địa phương nơi doanh nghiệp đăng ký trụ sở hoạt động; hoặc 
  • Nộp trên Hệ thống dịch vụ công trực tuyến của Bộ Thông tin và Truyền thông và Sở Thông tin và Truyền thông địa phương. 

Tuy rằng, pháp luật vẫn chưa có những quy định xử phạt hành chính theo Nghị Định 147, thế nhưng với hành vi không thực hiện báo cáo theo Nghị định 72/2013/NĐ-CP sẽ bị xử phạt từ 20.000.000 đến 30.000.000 đồng.9 

5. Các thông tin cần được thể hiện trên website

Căn cứ theo khoản 9 Điều 24 Nghị Định 147, các thông tin mà doanh nghiệp cần thể hiện trên website bao gồm: 

  • Tên của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân quản lý mạng xã hội; tên cơ quan chủ quản (nếu có);  
  • Địa chỉ liên lạc, thư điện tử, số điện thoại liên hệ; 
  • Tên người chịu trách nhiệm quản lý nội dung; biểu tượng trang mạng xã hội đã được cấp phép/cấp xác nhận. 
  • Giấy phép/Giấy xác nhận đang còn hiệu lực, ngày, tháng, năm cấp, cơ quan cấp phép; 
  • Tên trang và tên loại hình dịch vụ (trang thông tin điện tử tổng hợp hoặc mạng xã hội). Tên loại hình dịch vụ phải ghi ở ngay dưới tên trang, có cỡ chữ cao bằng 2/3 cỡ chữ của tên trang và có màu không bị lẫn vào màu nền. Tên trang không được giống hoặc trùng với tên cơ quan báo chí hoặc có những từ ngữ (bằng tiếng Việt hoặc tiếng nước ngoài tương đương) có thể gây nhầm lẫn là cơ quan báo chí hoặc hoạt động báo chí như: Báo, đài, tạp chí, tin, tin tức, phát thanh, truyền hình, truyền thông, thông tấn, thông tấn xã; 
  • Trường hợp mạng xã hội truy cập qua tên miền: Tên trang và tên loại hình dịch vụ đặt trên đầu trang chủ, các thông tin cần hiển thị khác nằm ở cuối trang chủ; 
  • Trường hợp mạng xã hội truy cập qua ứng dụng trên mạng: Tên trang và tên loại hình dịch vụ đặt trên đầu giao diện chính của ứng dụng; các thông tin cần hiển thị khác nằm ở mục Thông tin liên hệ. 

(1) Điểm b khoản 6 Điều 24 Nghị định 147/2024/NĐ-CP. 

(2) Khoản 30 Điều 3 Nghị định 147/2024/NĐ-CP. 

(3) Điểm d khoản 6 Điều 24 Nghị định 147/2024/NĐ-CP. 

(4) Điểm b khoản 3 Điều 27 Nghị định 147/2024/NĐ-CP. 

(5) Khoản 6 Điều 23Nghị định 72/2013/NĐ-CP. 

(6) Điểm a khoản 7 Điều 24 Nghị định 147/2024/NĐ-CP. 

(7) Điểm c khoản 3 Điều 32 Nghị định 147/2024/NĐ-CP. 

(8) Khoản 10 Điều 24 Nghị định 147/2024/NĐ-CP. 

(9) Điểm g khoản 1 Điều 100 Nghị định 15/2020/NĐ-CP. 

Bài viết liên quan:

1/ Xử lý tin giả trên mạng xã hội

2/ Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp trên mạng xã hội, xử lí ra sao?

 


Khuyến cáo:

Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý cho bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Các quy định pháp luật được dẫn chiếu trong nội dung bài viết có hiệu lực vào thời điểm đăng tải bài viết nhưng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đọc. Do đó, chúng tôi khuyến nghị bạn luôn tham khảo ý kiến của chuyên gia trước khi áp dụng.

Các vấn đề liên quan đến nội dung hoặc quyền sở hữu trí tuệ của bài viết, vui lòng gửi email đến cs@apolatlegal.vn.

Apolat Legal là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Bảo mật và xử lý dữ liệu. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi tại đây và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@apolatlegal.com.

Chia sẻ: share facebook share twitter share linkedin share instagram

Tìm hiểu cách chúng tôi có thể giúp doanh nghiệp của bạn

Khách hàng của chúng tôi

Liên hệ tư vấn



    Send Contact
    Call Us
    Zalo