Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế tòa án, dựa trên thỏa thuận của các bên, có tính linh hoạt cao và tôn trọng quyền tự định đoạt của các chủ thể trong hoạt động thương mại. Phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm góp phần giảm tải cho hệ thống tòa án, thúc đẩy hiệu quả trong thương mại quốc tế và nội địa. Tuy nhiên, nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật và bảo vệ lợi ích công, Luật Trọng tài Thương mại 2010 cho phép Tòa án được quyền hủy phán quyết trọng tài trong một số trường hợp đặc biệt.
Các trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy theo Luật Trọng tài thương mại 2010
Theo Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010, phán quyết trọng tài có thể bị hủy nếu có một trong các căn cứ sau:
- Không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
- Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;
- Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị hủy;
- Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;
- Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Trong số đó, căn cứ “vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là một căn cứ có tính chất chung, gây nhiều tranh cãi và khó xác định ranh giới áp dụng một cách khách quan nhưng lại là căn cứ phổ biến mà tòa án áp dụng để hủy phán quyết trọng tài.
Thế nào là “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”?
Luật Trọng tài Thương mại 2010 không định nghĩa cụ thể thế nào là “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Tuy nhiên, theo thực tiễn xét xử và khoa học pháp lý, thuật ngữ này thường được hiểu là các nguyên tắc pháp lý nền tảng, có tính phổ quát, chi phối toàn bộ hệ thống pháp luật. Ví dụ: nguyên tắc bình đẳng, tự do giao kết, thiện chí, trung thực, quyền được xét xử công bằng, nguyên tắc cấm hành vi vi phạm đạo đức xã hội nghiêm trọng,…
Nghị Quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội Đồng Thẩm Phán hướng dẫn Luật Trọng Tài Thương Mại, phán quyết trọng tài chỉ bị hủy do trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam khi đáp ứng đồng thời hai điều kiện sau.
- Phán quyết trọng tài có nội dung trái với một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam mà Hội đồng trọng tài đã không thực hiện nguyên tắc này khi ban hành phán quyết trọng tài. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam được hiểu là nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam; và
- Phán quyết trọng tài xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của một hoặc các bên, người thứ ba.
Án lệ số 42/2021/AL của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã xác định rằng: “Nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam là những nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp và các bộ luật quan trọng như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Thương mại…”.
Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, “trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật” thường được hiểu đơn giản là trái với quy định các văn bản quy phạm pháp luật, tức bao gồm cả trái luật và các văn bản dưới luật (pháp lệnh, nghị quyết, nghị định, thông tư…).
Không đồng nhất với quy định của BLDS 2015
Theo Điều 123 BLDS 2015, giao dịch dân sự chỉ vô hiệu khi vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội. Đây là một quy định mới, thu hẹp rất nhiều các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu so với quy định của BLDS 2005.
Ví dụ: Các bên trong hợp đồng sử dụng ngoại tệ làm đơn vị để xác định giá. Thỏa thuận này là trái với quy định của Pháp lệnh ngoại hối (văn bản dưới luật) nhưng không trái luật nên không vô hiệu.
Tuy nhiên, nếu trọng tài công nhận giao dịch nêu trên thì lại có thể bị xem là “vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật” và phán quyết của trọng tài có nguy cơ bị tòa án xem xét hủy.
Có thể lý giải rằng, Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010 ra đời sau BLDS 2015 nên vẫn còn kế thừa quy định của BLDS 2005 về giao dịch dân sự vô hiệu. Tuy nhiên, quy định về giao dịch dân sự chỉ vô hiệu khi vi phạm điều cấm của luật là một quy định tiến bộ của BLDS 2015. Luật trọng tài thương mại cần tiếp thu và được điều chỉnh tương ứng để cho các phán quyết trọng tài không còn bị hủy vì căn cứ này.
Bài viết liên quan
- Có bắt buộc phải thực hiện hòa giải khi tồn tại điều khoản trọng tài đa tầng? (Phần 01)
- Các trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được theo quy định pháp luật Việt Nam
- Mất quyền phản đối trong tố tụng trọng tài
Khuyến cáo:
Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý cho bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Các quy định pháp luật được dẫn chiếu trong nội dung bài viết có hiệu lực vào thời điểm đăng tải bài viết nhưng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đọc. Do đó, chúng tôi khuyến nghị bạn luôn tham khảo ý kiến của chuyên gia trước khi áp dụng.
Các vấn đề liên quan đến nội dung hoặc quyền sở hữu trí tuệ liên của bài viết, vui lòng gửi email đến cs@apolatlegal.vn.
Apolat Legal là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Giải quyết tranh chấp. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi Giải quyết tranh chấp và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@apolatlegal.com.


