1. Định nghĩa về cạnh tranh không lành mạnh
Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2020 và 2022 (sau đây gọi tắt là “Luật SHTT”) không định nghĩa như thế nào là hành vi cạnh tranh không lành mạnh đối với quyền sở hữu công nghiệp. Công ước Paris 1967 về bảo hộ sở hữu công nghiệp xác định bất cứ hành động nào trái với tập quán trung thực trong công nghiệp và thương mại là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.(1) Luật Cạnh tranh 2018 định nghĩa về hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác.(2) Từ các định nghĩa trên, hành vi cạnh tranh không lành mạnh xét về bản chất là hành vi trái với các chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến doanh nghiệp.(3)
2. Phân biệt khái niệm cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh và Luật Sở hữu trí tuệ
Dù rằng pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về sở hữu trí tuệ đều quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thế nhưng khái niệm này trong hai văn bản pháp luật mang bản chất pháp lý khác nhau.
Pháp luật về sở hữu trí tuệ bảo vệ quyền độc quyền sử dụng, khai thác các sản phẩm sáng tạo được bảo hộ, tạo động lực cho doanh nghiệp đổi mới và giúp người dùng tiếp cận được nhiều sản phẩm mới. Ngược lại, pháp luật về cạnh tranh tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, ngăn chặn những hành vi hoặc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh gây ảnh hưởng tiêu cực đến những doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Nhìn chung, tác động của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hai luật có tính chất tương tự, thế nhưng phạm vi hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh rộng hơn so với Luật Sở hữu trí tuệ. Trong đó, đối tượng được bảo vệ bởi các quy định về hành vi cạnh không lành mạnh trong Luật Sở hữu trí tuệ là các quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ, hẹp hơn so với Luật Cạnh tranh. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ được quy định chi tiết trong các điều khoản tương ứng như sau
Luật Cạnh trạnh 2018
(Khoản 1 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2018) |
Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, 2020 và 2022
(Khoản 1 Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ) |
1. Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh dưới các hình thức sau đây:
a) Tiếp cận, thu thập thông tin bí mật trong kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu thông tin đó; b) Tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật trong kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó. 2. Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó. 3. Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp đưa thông tin không trung thực về doanh nghiệp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó. 4. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp đó. 5. Lôi kéo khách hàng bất chính bằng các hình thức sau đây: a) Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp khác; b) So sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh được nội dung. 6. Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó. 7. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác bị cấm theo quy định của luật khác. |
a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ;
b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ; c) Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng; d) Chiếm hữu, sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng với dụng ý xấu, lợi dụng uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng nhằm thu lợi bất chính. |
Khoản 7 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2018 có quy định mở, theo đó “các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác bị cấm theo quy định của luật khác”. Song song đó, khoản 2 Điều 4 Luật Cạnh tranh 2018 cũng quy định về việc áp dụng luật khi có sự khác biệt giữa quy định pháp luật của hai luật: “Trường hợp luật khác có quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hình thức tập trung kinh tế, hành vi cạnh tranh không lành mạnh và việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của luật đó”.
Từ hai điều khoản trên, liệu có thể khẳng định khi có sự khác biệt về quy định pháp luật liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, Luật Sở hữu trí tuệ sẽ đương nhiên được áp dụng? Theo khoản 4 Điều 58 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2025: “Trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau”. Luật Cạnh tranh được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/7/2019, sau thời điểm có hiệu lực của Luật Sở hữu trí tuệ (1/7/2006). Theo nguyên tắc này, Luật Cạnh tranh sẽ được ưu tiên áp dụng. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam còn áp dụng nguyên tắc “ưu tiên luật chuyên ngành trước luật chung”. Xét khoản 2 Điều 4 Luật Cạnh tranh 2018, các quy định của luật chuyên ngành sẽ được ưu tiên khi có sự khác biệt. Do đó, Luật Sở hữu trí tuệ được ưu tiên áp dụng đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến các đối tượng sở hữu công nghiệp.
(1) Điều 10bis Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp.
(2) Điều 3.6 Luật Cạnh Tranh 2018.
(3) Phân biệt giữa cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, https://congdoan.most.gov.vn/thanhtra/Pages/ChiTietTin.aspx?groupID=4&IDNews=274&tieude=phan-biet-giua-canh-tranh-khong-lanh-manh-va-vi-pham-quyen-so-huu-tri-tue-.aspx
Khuyến cáo:
Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý cho bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Các quy định pháp luật được dẫn chiếu trong nội dung bài viết có hiệu lực vào thời điểm đăng tải bài viết nhưng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đọc. Do đó, chúng tôi khuyến nghị bạn luôn tham khảo ý kiến của chuyên gia trước khi áp dụng.
Các vấn đề liên quan đến nội dung hoặc quyền sở hữu trí tuệ của bài viết, vui lòng gửi email đến cs@apolatlegal.vn.
Apolat Legal là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Cạnh tranh. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi tại đây và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@apolatlegal.com.