Hạn chế trong chế tài bồi thường thiệt hại về môi trường qua tố tụng dân sự

Trong bối cảnh Việt Nam cam kết đạt “Net Zero” vào năm 2050, bên cạnh việc tích cực triển khai các chương trình phát triển năng lượng sạch, giảm phát thải khí nhà kính ở các bộ ngành, chính phủ Việt Nam cũng đã tăng cường việc thanh tra, kiểm tra và xử lý những tổ chức/cá nhân có hành vi vi phạm quy định về môi trường. Thời gian gần đây, rất nhiều “điểm nóng” về môi trường đã và đang được các chính quyền địa phương triển khai nhiều biện pháp quyết liệt để xử lý. Tùy vào mức độ nghiêm trọng của hành vi, các chủ thể gây ô nhiễm môi trường có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc thậm chí là xử lý hình sự, ngoài ra, còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các tổn thất do ô nhiễm môi trường.   

Dẫu vậy, các quy định hiện hành và thực tế của việc xử lý yêu cầu bồi thường thiệt hại về môi trường hiện vẫn còn một số bất cập và chưa đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân/tổ chức bị ảnh hưởng. Cụ thể như sau: 

1. Về hình thức giải quyết  

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, bồi thường thiệt hại về môi trường được giải quyết thông qua thương lượng giữa các bên. Trong trường hợp không thương lượng được, các bên có thể lựa chọn giải quyết thông qua các hình thức: hòa giải; giải quyết tranh chấp bằng trọng tài; giải quyết tranh chấp bằng Tòa án. (Điều 133 Luật BVMT 2020). 

Mặc dù pháp luật đã quy định các hình thức rất linh hoạt để giải quyết yêu cầu bồi BTTH về môi trường, nhưng trên thực tế, các yêu cầu này chủ yếu được giải quyết thông qua thông qua thương lượng hoặc hòa giải, hoặc được giải quyết chung khi cơ quan nhà nước (CQNN) xử lý hành chính/hình sự đối với các vi phạm về môi trường, còn các yêu cầu độc lập về bồi thường thiệt hại về môi trường qua thủ tục tố tụng dân sự trên thực tế là khá ít. Qua tìm kiếm tại trang Công bố bản án, quyết định của tòa án – Trang thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của tòa án, trong tổng số 15 bản án liên quan đến hành vi gây ô nhiễm môi trường được công bố thì có đến 14 bản án là xử lý hình sự, chỉ có 01 bản án là án dân sự.1 Án dân sự giải quyết yêu cầu bồi thường về môi trường đã ít, phán quyết của trọng tài về vấn  đề này lại càng ít hơn. Đến nay, tác giả vẫn chưa tìm được phán quyết/quyết định nào của trọng tài tại Việt Nam giải quyết vấn đề này. 

Nguyên nhân của những hạn chế về hình thức giải quyết này, theo quan điểm của tác giả: 

  • Thứ nhất, xuất phát từ các quy định về chủ thể xác định/xử lý các vi phạm về môi trường là các cơ quan nhà nước. Pháp luật về môi trường quy định trách nhiệm yêu cầu bồi thường và tổ chức thu thập, thẩm định dữ liệu, chứng cứ để xác định thiệt hại đối với môi trường do ô nhiễm, suy thoái là ủy ban nhân dân các cấp hoặc Bộ TNMT, tùy vào mức độ và phạm vi của hành vi (Điều 131 Luật BVMT). Các chủ thể này, với quyền lực nhà nước của mình, có quyền chủ động xử lý các hành vi vi phạm đã được xác định thông qua các chế tài hành chính hoặc yêu cầu xử lý hình sự, do đó, không nhất thiết phải giải quyết yêu cầu bồi thường độc lập thông qua thủ tục tố tụng dân sự hay trọng tài. 
  • Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp thông qua các thủ tục tố tụng dân sự hay trọng tài khá phức tạp, đòi hỏi các chủ thể tham gia phải tốn nhiều thời gian, chuẩn bị nhiều hồ sơ, tài liệu liên quan. Trong khi các bên bị ảnh hưởng bởi hành vi gây ô nhiễm môi trường đa phần là cá nhân, không có đủ kiến thức pháp luật và điều kiện tài chính để theo đuổi một quá trình tố tụng kéo dài. 

2. Về thiệt hại được bồi thường 

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là một trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, do đó, về nguyên tắc, sẽ phát sinh khi đáp ứng các điều kiện sau (Điều 584 BLDS 2015): 

  • Có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác, trong trường hợp này là hành vi gây ô nhiễm môi trường. 
  • Có thiệt hại xảy ra là thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần; 
  • Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi xâm phạm.  

Mặc dù Luật BVMT đã loại trừ các quy định về việc chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại xảy ra và quy trách nhiệm chứng minh về cho tổ chức, cá nhân vi phạm, gây ô nhiễm về môi trường. Nhưng việc xác định hành vi vi phạm và thiệt hại trong các vụ việc về môi trường là điều không đơn giản. 

Theo quy định của Luật BVMT, tổ chức, cá nhân gây thiệt hại về môi trường phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra, đồng thời phải chi trả toàn bộ chi phí xác định thiệt hại và thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định. Thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường bao gồm: 

  • Suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường; 
  • Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra. 

(Điều 130 Luật BVMT) 

Việc xác định thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường do cơ quan yêu cầu bồi thường thiệt hại về môi trường thực hiện theo các quy định cụ thể tại các nghị định của chính phủ và do CQNN thực hiện. Tuy nhiên, đối với thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì hiện vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể. Cơ quan yêu cầu bồi thường thiệt hại về môi trường chỉ có trách nhiệm xác định thiệt hại và yêu cầu bồi thường của tổ chức, cá nhân trong trường hợp được tổ chức, cá nhân ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự (Điều 113.5 Nghị định 08/2022/NĐ-CP). Trong khi đó, nếu tổ chức/cá nhân tự mình xác định thiệt hại và yêu cầu bồi thường thì những nội dung này thường lại không được chấp nhận do không có đủ cơ sở. 

3. Về chủ thể phải bồi thường:  

Theo quy định của Bộ luật dân sự, chủ thể làm ô nhiễm môi trường mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp chủ thể đó không có lỗi. (Điều 602 BLDS 2015). Trường hợp có từ 02 tổ chức, cá nhân trở lên gây thiệt hại về môi trường thì phải cùng liên đới bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm của mỗi bên được xác định theo loại chất ô nhiễm, lượng phát thải và các yếu tố khác và được xác định tương ứng với tỷ lệ gây thiệt hại trong tổng thiệt hại về môi trường. Trường hợp các bên liên quan hoặc cơ quan quản lý nhà nước về môi trường không xác định được tỷ lệ chịu trách nhiệm thì cơ quan trọng tài hoặc Tòa án quyết định theo thẩm quyền. (Điều 130.3 Luật BVMT 2020 

Mặc dù có quy định về việc liên đới chịu trách nhiệm khi gây thiệt hại về môi trường, nhưng luật lại yêu cầu xác định trách nhiệm cụ thể của mỗi bên theo loại chất ô nhiễm và tỷ lệ gây thiệt hại trong tổng thiệt hại về môi trường. Trong khi đó, việc xác định nguyên nhân và tỷ lệ gây thiệt hại đối với các vụ việc ô nhiễm môi trường nước, không khí không phải là điều dễ dàng. Và nếu các bên không xác định được tỷ lệ, luật lại quy định trách nhiệm thuộc về Tòa án hoăc trọng tài, như vậy, các bên buộc phải thực hiện việc khởi kiện tại Tòa án, trọng tài để giải quyết, dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ việc. 

Mặc dù Việt Nam đã có khung pháp lý khá cơ bản về việc bồi thường thiệt hại do các hành vi gây ô nhiễm môi trường với các điều khoản khá có lợi cho các tổ chức/cá nhân bị ảnh hưởng, nhưng trên thực tế, không nhiều tổ chức/cá nhân có thể chủ động áp dụng các quy định này để bảo vệ quyền/lợi ích chính đáng và hợp pháp của mình. Mọi hành động hầu như phụ thuộc vào các cơ quan có thẩm quyền, và trong nhiều trường hợp, những người bị ảnh hưởng bởi hành vi gây ô nhiễm môi trường vẫn chưa có được mức đền bù thỏa đáng. Những hạn chế này một phần xuất phát từ hạn chế về kiến thức pháp luật, phần khác xuất phát từ sự phức tạp trong các thủ tục hành chính, tố tụng, gây tốn kém thời gian/công sức và tạo tâm lý e ngại cho người dân.  

Hướng đến mục tiêu “Net Zero” vào năm 2050 của Việt Nam, việc xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để áp dụng các chế tài liên quan đến hành vi gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là bồi thường thiệt hại về môi trường cũng là một vấn đề cấp bách và có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân, do đó, cần được quan tâm đúng mức. Việc hoàn thiện quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với các vấn đề về môi trường sẽ tạo ra khuôn khổ pháp lý vững chắc giúp việc triển khai có hiệu quả các biện pháp nhằm bảo vệ môi trường, từ đó đạt được các mục tiêu phát triển bền vững và các cam kết quốc gia.  

Bài viết liên quan

  1. Bồi thường thiệt hại trong dịch vụ pháp lý
  2. Chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
  3. Chế tài bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam

Khuyến cáo:

Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý cho bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Các quy định pháp luật được dẫn chiếu trong nội dung bài viết có hiệu lực vào thời điểm đăng tải bài viết nhưng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đọc. Do đó, chúng tôi khuyến nghị bạn luôn tham khảo ý kiến của chuyên gia trước khi áp dụng.

Các vấn đề liên quan đến nội dung hoặc quyền sở hữu trí tuệ liên của bài viết, vui lòng gửi email đến cs@apolatlegal.vn.

Apolat Legal là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Giải quyết tranh chấp. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi Giải quyết tranh chấp và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@apolatlegal.com.

 

Chia sẻ: share facebook share twitter share linkedin share instagram

Tìm hiểu cách chúng tôi có thể giúp doanh nghiệp của bạn

Khách hàng của chúng tôi

Liên hệ tư vấn



    Send Contact
    Call Us
    Zalo