Khi phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại trở nên phổ biến, doanh nghiệp ngày càng quen thuộc với việc soạn thảo các điều khoản trọng tài phức tạp. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, không ít trường hợp thỏa thuận trọng tài sau đó vẫn bị xác định là vô hiệu, tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài hoặc thậm chí là không tồn tại thỏa thuận trọng tài giữa các bên. Để hạn chế xảy ra trường hợp không mong muốn này, các bên trong giao dịch nên lưu tâm đến các thành tốt cốt lõi của một thỏa thuận trọng tài như được phân tích sau đây.
1. Thỏa thuận trọng tài là gì?
a. Khái niệm “thỏa thuận trọng tài”
Khái niệm về thỏa thuận trọng tài được quy định tại Luật trọng tài thương mại Việt Nam 2010 (“Luật TTTM”) nhìn chung khá tương đồng với quy định tại Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của Ủy Ban Liên Hiệp Quốc Về Luật Thương Mại Quốc Tế (UNCITRAL) (“Luật Mẫu”) và Công ước về công nhận và thi hành các quyết định trọng tài nước ngoài (“Công Nước New York”). Theo đó, thỏa thuận trọng tài được hiểu là một thỏa thuận giữa các bên thể hiện việc các bên đồng ý giải quyết một phần hoặc toàn bộ các tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh liên quan đến một quan hệ cụ thể (có thể là quan hệ hợp đồng hay quan hệ khác) bằng trọng tài.
Điều 3 Luật TTTM
- Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.
Thông qua thỏa thuận trọng tài, các bên thể hiện ý chí của mình về việc lựa chọn giải quyết tranh chấp phát sinh theo phương thức trọng tài (mà không phải tòa án hoặc phương thức giải quyết tranh chấp khác) và có thể theo thủ tục tố tụng được các bên xác định trước một phần hoặc toàn bộ.
Xem thêm: Tranh chấp nào được giải quyết bằng trọng tài thương mại?
b. Đặc tính của một thỏa thuận trọng tài
So với một thỏa thuận dân sự thông thường, thỏa thuận trọng tài có những đặc thù sau đây:
- Về thời điểm xác lập thỏa thuận: thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập trước hoặc sau khi phát sinh tranh chấp.
- Về hình thức của thỏa thuận: thỏa thuận trọng tài có thể tồn tại dưới dạng một thỏa thuận độc lập hoặc là một điều khoản trong hợp đồng/thỏa thuận chính.
- Tính chất độc lập của thỏa thuận: thỏa thuận trọng tài được xác định là độc lập với hợp đồng/thỏa thuận chính.
2. Các yếu tố cốt lõi của một thỏa thuận trọng tài
a. Về năng lực pháp luật của chủ thể giao kết thỏa thuận trọng tài
Về nguyên tắc, thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập sẽ bị vô hiệu. Nội dung này được ghi nhận tại Luật TTTM (Điều 18.2), Công Ước New York (Điều V.1.a) và Luật Mẫu (Điều 34(2)(a)(i) & Điều 36(1)(a)(i)).
Điều 18 Luật TTTM. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu
- Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Vấn đề tiếp theo cần xác định là, cơ sở pháp lý để xác định thẩm quyền của người giao kết thỏa thuận là gì? Công Ước New York và Luật Mẫu quy định đồng nhất rằng, năng lực chủ thể giao kết thỏa thuận trọng tài được xác định theo luật áp dụng với họ/luật điều chỉnh các bên. Tương đồng với tinh thần của pháp luật trọng tài quốc tế, tại Công văn số 246/TANDTC-KT của Tòa Án Nhân Dân Tối Cao ngày 25/7/2014 v/v giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của trọng tài nước ngoài [1], TANDTC đã làm rõ rằng, Hội đồng xét đơn yêu cầu sẽ căn cứ vào pháp luật được áp dụng cho mỗi bên để xác định người ký kết thỏa thuận trọng tài có năng lực (thẩm quyền) để ký kết trọng tài đó hay không. Theo đó, quy định của Việt Nam được ghi nhận tại Điều 466 và 467 Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2015 (“BLTTDS”) (trước đó là Điều 407, 408 của Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2004) như sau:
- Đối với cá nhân nước ngoài, cơ sở pháp lý để xác định năng lực giao kết của người này dựa trên pháp luật của nước mà người này có quốc tịch (Điều 466 BLTTDS).
- Đối với cơ quan, tổ chức nước ngoài, năng lực pháp luật tố tụng dân sự được xác định theo pháp luật của nước nơi cơ quan, tổ chức đó được thành lập (Điều 467 BLTTDS).
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam (Khoản 3 Điều 676 Bộ Luật Dân Sự 2015).
Như vậy, pháp luật điều chỉnh năng lực chủ thể giao kết thỏa thuận trọng tài có thể khác với pháp luật điều chỉnh nội dung của hợp đồng giữa các bên. Ví dụ: Tại hợp đồng mua bán hàng hóa giữa công ty Trung Quốc và công ty Việt Nam (bên mua), các bên thỏa thuận rằng hợp đồng được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam và mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng sẽ được giải quyết bằng trọng tài thương mại. Như vậy, cơ sở pháp lý để xác định chủ thể giao kết thỏa thuận trọng tài này có thẩm quyền hay không là dựa trên pháp luật của nước Trung Quốc đối với công ty Trung Quốc và pháp luật của Việt Nam (Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp và các quy định có liên quan khác) đối với công ty Việt Nam. Trong khi đó, pháp luật điều chỉnh nội dung của hợp đồng là Việt Nam.
b. Về ý chí đồng thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Ý chí đồng thuận của các bên trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật trọng tài thương mại. Tương tự như một thỏa thuận dân sự thông thường, theo quy định của Luật TTTM, trường hợp một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu (Khoản 5 Điều 18).
c. Về phạm vi tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài
Xét trong mối quan hệ pháp lý hợp đồng giữa các bên, thực tế có thể phát sinh rất nhiều loại tranh chấp khác nhau (ví dụ: tranh chấp về hiệu lực của hợp đồng; tranh chấp về chất lượng hàng hóa/dịch vụ; tranh chấp về xác định thiệt hại được bồi thường; tranh chấp về chấm dứt hợp đồng…). Tuy nhiên, hội đồng trọng tài không mặc nhiên có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp phát sinh giữa các bên, mà chỉ có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp mà các bên có thỏa thuận cụ thể trao quyền cho trọng tài.
Thông thường, các điều khoản trọng tài thường quy định theo hướng mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến Hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng trọng tài thương mại. Trường hợp các bên muốn loại trừ một số tranh chấp không được giải quyết bằng trọng tài, các bên cần ghi nhận cụ thể tại hợp đồng.
Ví dụ: Quyết định về việc hủy phán quyết trọng tài số 1420/2019/QĐ-PQTT ngày 16/10/2019 của TAND TP. Hồ Chí Minh [1] theo yêu cầu của Công Ty TNHH LP (Bị Đơn) với phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 82/17 HCM của Hội đồng trọng tài thuộc Trung Tâm Trọng Tài QT lập ngày 29/7/2019 tại TP. Hồ Chí Minh với Nguyên Đơn là Tập Đoàn CK tại Hàn Quốc.
Hội đồng xét đơn nhận định rằng, theo thỏa thuận ngày 16/5/2017 giữa Nguyên Đơn, Bị Đơn và Công Ty Cổ Phần Vật Tư Hàng Hải, các bên thỏa thuận 05 vấn đề sẽ được giải quyết bằng trọng tài và các vấn đề này chỉ liên quan đến nghĩa vụ của Nguyên Đơn đối với Bị Đơn, không có nội dung nào đề cập đến nghĩa vụ của Bị Đơn đối với Nguyên Đơn. Do đó, việc Hội đồng trọng tài giải quyết cả yêu cầu của Nguyên Đơn đối với Bị Đơn về những chi phí khác, chi phí tổn thất trong kinh doanh do việc bắt giữ tàu là nằm ngoài phạm vi giải quyết tranh chấp các bên thỏa thuận. Do phần của phán quyết trọng tài mà hội đồng trọng tài giải quyết vượt quá thẩm quyền không thể tách ra được vì phán quyết trọng tài đã cấn trừ các nghĩa vụ lẫn nhau giữa Nguyên Đơn và Bị Đơn, nên phán quyết trọng tài đã bị Tòa án tuyên hủy toàn bộ.
Xem thêm: Địa điểm trọng tài so với địa điểm phiên xử trọng tài?
d. Về hình thức của thỏa thuận trọng tài
Hình thức của thỏa thuận trọng tài là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu lực của thỏa thuận trọng trọng tài. Trường hợp hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định của pháp luật có thể là căn cứ khiến thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu (Khoản 4 Điều 18 Luật TTTM).
Theo quy định pháp luật Việt Nam, thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng. Quan trọng nhất, thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Tuy nhiên, khái niệm văn bản ở đây được hiểu theo nghĩa rộng. Theo đó, Khoản 2 Điều 16 quy định cụ thể 05 trường hợp thỏa thuận trọng tài được coi là đã được xác lập dưới dạng văn bản như sau:
- Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
- Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
- Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
- Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
- Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
Ví dụ: Quyết định về việc hủy phán quyết trọng tài số 1191/2021/QĐ-PQTT của TAND TP. Hồ Chí Minh ngày 01/12/2021 [2] theo yêu cầu của Công Ty TNHH Du Lịch VH (Bị Đơn 01) và CTCP Tập Đoàn HA (Bị Đơn 02) với phán quyết trọng tài số 49/20/HCM do VIAC ban hành ngày 07/04/2021 có Nguyên Đơn là Công Ty TNHH AR.
Bị Đơn 02 yêu cầu hủy phán quyết trọng tài vì cho rằng giữa mình và Nguyên Đơn không có thỏa thuận trọng tài, bởi mặc dù Bị Đơn 01 và Bị Đơn 02 có mối quan hệ sở hữu vốn nhưng hợp đồng dịch vụ thiết kế ngày 14/02/2019 (có điều khoản trọng tài) chỉ được ký kết giữa Bị Đơn 01 và Nguyên Đơn. Tuy nhiên, Hội đồng xét đơn nhận định rằng, giữa Bị Đơn 02 và Nguyên Đơn đã có xác lập thỏa thuận trọng tài, bởi lẽ: (1) tại phần 1 định nghĩa của hợp đồng dịch vụ thiết kế đã ghi nhận rằng, khách hàng là Bị Đơn 02 và (2) trong quá trình thực hiện hợp đồng, giữa Bị Đơn 02 và Nguyên Đơn đã có nhiều thông báo trao đổi qua lại về nội dung hợp đồng. Do đó, cần xác định là giữa hai bên thực tế đã tồn tại thỏa thuận trọng tài.
Trên đây là sơ lược một số nội dung trọng yếu của một thỏa thuận trọng tài các bên cần lưu ý khi soạn thảo điều khoản giải quyết tranh chấp để đảm bảo thỏa thuận trọng tài có hiệu lực và có thể thực hiện được. Ngoài các vấn đề được trình bày trong bài viết này, còn nhiều yếu tố khác của thỏa thuận trọng tài thường bị nhầm lẫn, như địa điểm trọng tài, địa điểm phiên họp, luật tố tụng trọng tài, luật hợp đồng, luật thỏa thuận trọng tài… Các nội dung này sẽ được lần lượt phân tích tại các bài viết tiếp theo.
[2]: https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta833313t1cvn/chi-tiet-ban-an
Khuyến cáo:
Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý cho bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Các quy định pháp luật được dẫn chiếu trong nội dung bài viết có hiệu lực vào thời điểm đăng tải bài viết nhưng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đọc. Do đó, chúng tôi khuyến nghị bạn luôn tham khảo ý kiến của chuyên gia trước khi áp dụng.
Các vấn đề liên quan đến nội dung hoặc quyền sở hữu trí tuệ liên của bài viết, vui lòng gửi email đến cs@apolatlegal.vn.
Apolat Legal là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Giải quyết tranh chấp. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi Giải quyết tranh chấp và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@apolatlegal.com.