Điều khoản bảo mật, đôi khi còn được gọi là điều khoản không tiết lộ, là điều khoản mà theo đó một bên khi có được một số loại thông tin nhất định của bên còn lại thông qua quan hệ hợp đồng thì sẽ có trách nhiệm bảo mật những thông tin đó. Điều khoản bảo mật thông tin không phải là một điều khoản bắt buộc trong hợp đồng nhưng ngày càng được chú trọng và xuất hiện trong hầu hết các hợp đồng thương mại, thậm chí cả các giao dịch dân sự. Vậy làm thế nào để các bên vận dụng điều khoản bảo mật thông tin hiệu quả nhất? Bài viết sau đây sẽ đề cập đến những lưu ý về điều khoản bảo mật thông tin khi sử dụng.
1. Lưu ý về đối tượng bảo mật
Hiện nay, nghĩa vụ bảo mật thông tin được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Thông thường, không phải thông tin nào cũng là đối tượng được bảo mật mà nghĩa vụ bảo mật chỉ áp dụng đối với một số thông tin nhất định tùy theo từng lĩnh vực và tính chất của thông tin. Đối với pháp luật về dân sự và thương mại, những thông tin được bảo mật theo luật định thông thường là những thông tin thể hiện bản chất của giao dịch. Ví dụ: đối với hợp đồng gia công thì bên nhận gia công sẽ có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về quy trình gia công và sản phẩm tạo ra hoặc đối với hợp đồng nhượng quyền thương mại thì bên nhận quyền có trách nhiệm giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền.[1] Đối với các thông tin khác không được pháp luật quy định, Bộ luật dân sự 2015 hiện chỉ quy định về nghĩa vụ bảo mật đối với những “thông tin bí mật” và áp dụng cho các thông tin bí mật được cung cấp trong giai đoạn giao kết hợp đồng.[2] Bộ luật dân sự không đưa ra bất kỳ định nghĩa nào về “thông tin bí mật” nhưng có thể hiểu thông tin bí mật là do bên cung cấp thông tin tự xác định miễn là thông tin đó chưa được công bố, công khai rộng rãi và được bên cung cấp thông tin giữ như một bí mật. Tuy nhiên, nghĩa vụ bảo mật có thể sẽ không được áp dụng đối với những thông tin mà bên nhận thông tin bắt buộc phải cung cấp cho bên thứ ba theo quy định pháp luật như thông tin cung cấp cho sở giao dịch chứng khoán hoặc cho các cơ quan điều tra.
2. Lưu ý về những hạn chế
Tương tự như mọi điều khoản khác có trong hợp đồng, điều khoản bảo mật thông tin cũng sẽ bị hạn chế về tính độc lập. Hiện nay, chỉ có điều khoản về thỏa thuận trọng tài là được pháp luật công nhận về tính độc lập với hợp đồng. Cụ thể, trừ khi chính thỏa thuận trọng tài bị tuyên bố vô hiệu, việc hợp đồng bị tuyên vô hiệu hay không thể thực hiện được sẽ không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. [3] Về lý thuyết, ngoại trừ điều khoản thỏa thuận trọng tài nói trên, khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu toàn phần thì các điều khoản trong hợp đồng cũng bị vô hiệu. Lúc này, các bên không có bất kỳ quyền và nghĩa vụ nào phát sinh từ hợp đồng (nghĩa vụ bảo mật) mà chỉ có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc vô hiệu như bồi thường thiệt hại. [4] Hay nói cách khác, bên nhận thông tin sẽ không phải có nghĩa vụ bảo mật đối với bất kỳ thông tin nào có được trong quá trình thực hiện hợp đồng. Do đó, đây là một rủi ro rất lớn đối với bên cung cấp thông tin nếu những thông tin đã tiết lộ có giá trị thương mại cao.
Trên thực tế, điều khoản bảo mật vẫn được các bên thỏa thuận và cam kết về việc duy trì hiệu lực ngay cả khi hợp đồng chấm dứt hoặc bị hủy bỏ (Surviving clauses). Tuy nhiên, không phải trường hợp nào pháp luật cũng công nhận tính duy trì đối với các điều khoản trong hợp đồng. Hiện nay, pháp luật chỉ ghi nhận tính duy trì hiệu lực đối với một số điều khoản như điều khoản phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và giải quyết tranh chấp khi hợp đồng bị hủy bỏ hoặc chấm dứt. Chỉ có Luật thương mại 2005 là ghi nhận tính duy trì hiệu lực đối với các điều khoản do các bên thỏa thuận nhưng chỉ trong trường hợp hủy bỏ hợp đồng. [5] Do đó, việc pháp luật chưa ghi nhận tính duy trì đối với điều khoản bảo mật cũng là một hạn chế cho bên cung cấp thông tin trong việc bảo vệ thông tin của mình khi thực hiện hợp đồng.
Ngoài ra, một hạn chế đáng lưu ý khác đối với các điều khoản trong hợp đồng là tính phụ thuộc vào pháp luật áp dụng của hợp đồng. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài đối với các hợp đồng thương mại không phải là một điều lạ lẫm. Đây cũng là một bất lợi chung đối với doanh nghiệp trong nước khi xảy ra tranh chấp hoặc khi yêu cầu được bảo vệ quyền lợi. Điều khoản bảo mật trong hợp đồng cũng không phải là ngoại lệ. Ví dụ, tại một số bang của Mỹ, điều khoản bảo mật có nhiều khả năng bị từ chối vì phạm vi bảo mật quá rộng và mập mờ hoặc thông tin bảo mật không có giá trị hoặc không có yếu tố bí mật. [6]
Xem thêm: Điều Khoản Bảo Mật Trong Hợp Đồng: Những Hạn Chế Cần Lưu Ý.
3. Một số giải pháp
Một giải pháp nhỏ để xử lý hậu quả và giảm bớt rủi ro cho bên cung cấp thông tin khi xảy ra tranh chấp trong các trường hợp nói trên là vận dụng điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 về nghĩa vụ bảo mật thông tin trong giai đoạn giao kết hợp đồng. Như đã đề cập ở trên, bên nhận thông tin có trách nhiệm bảo mật bất kỳ thông tin bí mật nào được cung cấp trước khi các bên xác lập hợp đồng. Do đó, nghĩa vụ bảo mật các thông tin bí mật được cung cấp trước thời điểm xác lập hợp đồng sẽ không phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng.
Ngoài ra, phương pháp tốt nhất là tách biệt điều khoản bảo mật ra khỏi hợp đồng. Cụ thể, các bên có thể ký kết thỏa thuận bảo mật thông tin độc lập (a standalone non-disclosure agreement – “NDA”) trước khi tiến hành đàm phán và thực hiện hợp đồng. Một thỏa thuận bảo mật độc lập có thể giúp bên cung cấp thông tin loại bỏ rủi ro về tính độc lập và tính duy trì của điều khoản bảo mật như đã nêu ở trên trong hầu hết trường hợp, kể cả trường hợp hợp đồng bị tuyên vô hiệu. Bởi lẽ lúc này, hiệu lực của nghĩa vụ bảo mật của bên nhận thông tin không bị ràng buộc bởi hợp đồng bị tuyên vô hiệu, mà bởi chính thỏa thuận bảo mật được các bên ký kết độc lập. Thậm chí trong một số trường hợp, thỏa thuận bảo mật và hợp đồng được ký kết có thể được điều chỉnh bởi hai pháp luật khác nhau. Thông thường, thỏa thuận bảo mật sẽ áp dụng pháp luật của nước mà bên cung cấp thông tin có trụ sở. Do đó, tạo thuận lợi cho việc thực thi và giải quyết tranh chấp đối với bên cung cấp thông tin mà không ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng còn lại.
[1] Điều 546.4 Bộ luật dân sự 2015 và Điều 289.4 Luật Thương mại 2005.
[2] Điều 387.2 Bộ luật dân sư 2015.
[3] Điều 19 Luật Trọng tài thương mại 2010.
[4] Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb Hồng Đức, trang 183.
[5] Khoản 1 Điều 314 Luật Thương mại 2005
Khuyến cáo: Bài viết này chỉ nhằm mục đích cung cấp các thông tin chung và không nhằm cung cấp bất kỳ ý kiến tư vấn pháp lý nào. Apolat Legal là một công ty luật tại Việt Nam có kinh nghiệm và năng lực cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan đến Hợp đồng. Vui lòng tham khảo về dịch vụ của chúng tôi tại đây và liên hệ với đội ngũ luật sư tại Viêt Nam của chúng tôi thông qua email info@apolatlegal.com.